Không những là một nhạc sĩ sáng tác, Trần Trịnh còn là một trong những
nhạc sĩ có nhiêu gắn bó nhất với lãnh vực phòng trà và vũ trường của
Sài Gòn về đêm trước năm 75. Nhắc đến Trần Trịnh, không ai quên được
nhạc phẩm Lệ Đá (do Hà Huyền Chi viết lời) đã dính liền với cuộc đời
sáng tác của ông. Ngoài nhạc phẩm điển hình đó, Trần Trịnh còn là tác
giả của nhiều nhạc phẩm đặc sắc khác, trong số có nhiều bài cùng với hai
người bạn nghệ sĩ là Nhật Ngân và Lâm Đệ được ký dưới tên Trịnh Lâm
Ngân trong những thập niên 60 và 70. Tuy đã bước vào lớp tuổi
70, nhưng Trần Trịnh vẫn còn nhớ rành mạch rất nhiều chi tiết khi tâm sự
với người viết về quá trình hoạt động âm nhạc lâu dài của ông cùng với
cuộc sống tình cảm trong cuộc sống thăng trầm của một người nghệ sĩ chịu
một ảnh hưởng lớn của nền văn hoá Tây Phương. Với một giọng kể
chuyện say mê, Trần Trịnh cho biết âm nhạc đã quyến rũ ông mãnh liệt khi
theo học chương trình Pháp tại trường Taberd Sài Gòn trong suốt 10 năm,
từ năm 1945 cho đến khi ra trường vào năm 1955 với mảnh bằng Bacc 2 (Tú
Tài 2 Pháp). Nhưng niềm đam mê nơi ông đã gặp một trở ngại lớn
là sự không đồng ý của bố mẹ để chấp thuận cho ông theo ngành âm nhạc,
ngoài những giờ học nhạc trong chương trình của trường. Mặc dù
là một nhân viên của tòa đại sứ Pháp theo tây học, nhưng thân phụ ông
vẫn tỏ ra không mấy có cảm tình với cuộc đời nghệ sĩ. Và mẹ ông, một
phụ nữ người Lào – vợ sau của thân phụ ông – cũng chẳng tỏ ra khuyến
khích cậu con trai út trong số 3 người con của mình. Tuy vậy,
cậu học sinh tên thật là Trần Văn Lượng, sinh năm 1936 tại Hà Nội* vẫn
luôn ấp ủ giấc mơ đến với âm nhạc một ngày nào đó. Trong những năm học ở
Taberd, Trần Trịnh đã rất khâm phục sư huynh Rémi mang họ Trịnh, trong
những giờ học nhạc do ngài phụ trách. Sư huynh Rémi đã trở thành thần
tượng của ông để ông ghép họ của mình với họ của sư huynh Rémi là Trịnh
thành nghệ danh Trần Trịnh ngay từ khi sáng tác nhạc phẩm đầu tiên. Thật
ra Trần Trịnh đã mon men đến với lãnh vực sáng tác từ khi mới 14 tuổi
nhờ có khả năng thiên phú cộng với một đầu óc nhận xét nhạy bén trong
khi theo học những giờ nhạc do sư huynh Rémi hướng dẫn. Sáng
tác đầu tiên của ông là Cung Đàn Muôn Điệu, được viết vào năm 1950 là
năm ông được 14 tuổi. Nhưng mãi đến năm 17 tuổi mới được phổ biến bởi
nhà xuất bản An Phú. Ba năm sau, vào năm 1956, nhạc phẩm này lại đã được
nhà xuất bản Diên Hồng tái bản. Sau đó, nhạc phẩm này còn được
dùng làm nhạc chuyển mục trong một chương trình tân nhạc cùng với bài
Chuyến Xe Về Nam, do nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành vào năm 55. Cũng
trong năm 1956, Trần Trịnh lại cho ra đời thêm một nhạc phẩm khác là
Viết Trên Đường Nở Hoa. Sau khi đậu bằng Bacc 2 vào năm 1955,
Trần Trịnh được gia đình gửi lên vừa học vừa làm tại Nha Kiến Trúc Đà
Lạt. Qua năm 1957, ông thi hành nghĩa vụ quân dịch khóa đầu tiên là khoá
Ngô Đình Diệm tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Đánh dấu cho dịp
này, ông đã viết bài Đôi Mươi, do Anh Ngọc trình bày lần đầu tiên. Trần
Trịnh đã phục vụ 2 tháng ở liên đoàn A và 2 tháng ở liên đoàn B và sau
đó vào phục vụ trong ban văn nghệ TTHL Quang Trung cho
đến khi về. Trong thời gian đó, ông đã phổ nhạc cho bài thơ Hai Sắc Hoa
Ti-Gôn. Sau khi được trở về nguyên quán vào năm 58, Trần Trịnh
thực hiện giấc mơ của mình khi ghi tên theo học với thần tượng âm nhạc
của ông là sư huynh Rémi, tiến sĩ âm nhạc ở Rome và cũng là tác giả nhạc
hiệu của Institution Taberd.
Khi học tại trường, khi học tại
cư xá của các sư huynh dòng La San tại Thanh Đa, Trần Trịnh đã được huấn
luyện về âm nhạc trong suốt 9 năm trời – từ năm 58 đên năm 67 - nên đã
có được một căn bản vững vàng về nhạc pháp cũng như về nghệ thuật sử
dụng piano. Không những là một nhạc sĩ sáng tác, Trần Trịnh còn là một trong những
nhạc sĩ có nhiêu gắn bó nhất với lãnh vực phòng trà và vũ trường của
Sài Gòn về đêm trước năm 75. Nhắc đến Trần Trịnh, không ai quên được
nhạc phẩm Lệ Đá (do Hà Huyền Chi viết lời) đã dính liền với cuộc đời
sáng tác của ông. Ngoài nhạc phẩm điển hình đó, Trần Trịnh còn là tác
giả của nhiều nhạc phẩm đặc sắc khác, trong số có nhiều bài cùng với hai
người bạn nghệ sĩ là Nhật Ngân và Lâm Đệ được ký dưới tên Trịnh Lâm
Ngân trong những thập niên 60 và 70. Tuy đã bước vào lớp tuổi
70, nhưng Trần Trịnh vẫn còn nhớ rành mạch rất nhiều chi tiết khi tâm sự
với người viết về quá trình hoạt động âm nhạc lâu dài của ông cùng với
cuộc sống tình cảm trong cuộc sống thăng trầm của một người nghệ sĩ chịu
một ảnh hưởng lớn của nền văn hoá Tây Phương. Với một giọng kể
chuyện say mê, Trần Trịnh cho biết âm nhạc đã quyến rũ ông mãnh liệt khi
theo học chương trình Pháp tại trường Taberd Sài Gòn trong suốt 10 năm,
từ năm 1945 cho đến khi ra trường vào năm 1955 với mảnh bằng Bacc 2 (Tú
Tài 2 Pháp). Nhưng niềm đam mê nơi ông đã gặp một trở ngại lớn
là sự không đồng ý của bố mẹ để chấp thuận cho ông theo ngành âm nhạc,
ngoài những giờ học nhạc trong chương trình của trường. Mặc dù
là một nhân viên của tòa đại sứ Pháp theo tây học, nhưng thân phụ ông
vẫn tỏ ra không mấy có cảm tình với cuộc đời nghệ sĩ. Và mẹ ông, một
phụ nữ người Lào – vợ sau của thân phụ ông – cũng chẳng tỏ ra khuyến
khích cậu con trai út trong số 3 người con của mình. Tuy vậy,
cậu học sinh tên thật là Trần Văn Lượng, sinh năm 1936 tại Hà Nội* vẫn
luôn ấp ủ giấc mơ đến với âm nhạc một ngày nào đó. Trong những năm học ở
Taberd, Trần Trịnh đã rất khâm phục sư huynh Rémi mang họ Trịnh, trong
những giờ học nhạc do ngài phụ trách. Sư huynh Rémi đã trở thành thần
tượng của ông để ông ghép họ của mình với họ của sư huynh Rémi là Trịnh
thành nghệ danh Trần Trịnh ngay từ khi sáng tác nhạc phẩm đầu tiên. Thật
ra Trần Trịnh đã mon men đến với lãnh vực sáng tác từ khi mới 14 tuổi
nhờ có khả năng thiên phú cộng với một đầu óc nhận xét nhạy bén trong
khi theo học những giờ nhạc do sư huynh Rémi hướng dẫn. Sáng
tác đầu tiên của ông là Cung Đàn Muôn Điệu, được viết vào năm 1950 là
năm ông được 14 tuổi. Nhưng mãi đến năm 17 tuổi mới được phổ biến bởi
nhà xuất bản An Phú. Ba năm sau, vào năm 1956, nhạc phẩm này lại đã được
nhà xuất bản Diên Hồng tái bản. Sau đó, nhạc phẩm này còn được
dùng làm nhạc chuyển mục trong một chương trình tân nhạc cùng với bài
Chuyến Xe Về Nam, do nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành vào năm 55. Cũng
trong năm 1956, Trần Trịnh lại cho ra đời thêm một nhạc phẩm khác là
Viết Trên Đường Nở Hoa. Sau khi đậu bằng Bacc 2 vào năm 1955,
Trần Trịnh được gia đình gửi lên vừa học vừa làm tại Nha Kiến Trúc Đà
Lạt. Qua năm 1957, ông thi hành nghĩa vụ quân dịch khóa đầu tiên là khoá
Ngô Đình Diệm tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Đánh dấu cho dịp
này, ông đã viết bài Đôi Mươi, do Anh Ngọc trình bày lần đầu tiên. Trần
Trịnh đã phục vụ 2 tháng ở liên đoàn A và 2 tháng ở liên đoàn B và sau
đó vào phục vụ trong ban văn nghệ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cho
đến khi về. Trong thời gian đó, ông đã phổ nhạc cho bài thơ Hai Sắc Hoa
Ti-Gôn. Sau khi được trở về nguyên quán vào năm 58, Trần Trịnh
thực hiện giấc mơ của mình khi ghi tên theo học với thần tượng âm nhạc
của ông là sư huynh Rémi, tiến sĩ âm nhạc ở Rome và cũng là tác giả nhạc
hiệu của Institution Taberd. Khi học tại trường, khi học tại
cư xá của các sư huynh dòng La San tại Thanh Đa, Trần Trịnh đã được huấn
luyện về âm nhạc trong suốt 9 năm trời – từ năm 58 đên năm 67 - nên đã
có được một căn bản vững vàng về nhạc pháp cũng như về nghệ thuật sử
dụng piano.
Và chính nhờ ở những nhạc phẩm Trần Trịnh vừa kể được ký dưới tên Trịnh
Lâm Ngân, cặp song ca kích động nhạc Hùng Cường-Mai Lệ Huyền đã gặt hái
được những thành công đáng kể để được mệnh danh là “Cặp Sóng Thần”, một
thời làm mưa làm gió trên các sân khấu đại nhạc hội ở Sài Gòn. Sau
hơn 10 năm sống bên nhau, Mai Lệ Huyền đã từ giã chồng con ra đi vào
tháng 4 năm 75, trong khi ông không thể đi cùng để bỏ lại song thân đã
cao tuổi, cũng là hai người đã nuôi đứa cháu nội từ khi mới lọt
lòng. Hai người coi như xa nhau từ đấy. Hai năm sau khi rời khỏi
Việt Nam, Mai Lệ Huyền viết thư về cho con gái, đại ý khuyên Trần Trịnh
bước thêm một bước nữa trong khi chị cũng đã đi đến quyết định như vậy. Vào
năm 1977, Trần Trịnh lập gia đình lần thứ hai. Người vợ sau của ông đã
cho ông 3 người con trai. Nhưng chả may người con đầu bị thiệt mạng
trong một lần đi tắm sông với bạn bè khi mới được 17 tuổi. Người
con thứ nhì của vợ chồng nhạc sĩ Trần Trịnh năm nay 24 tuổi hiên đang
phục vụ trong binh chủng hải quân Hoa Kỳ, có khả năng sử dụng kèn
trumpet. Trong khi người con út năm nay 22 tuổi cũng rất thích nhạc
nhưng không có khuynh hướng đi theo con đường của bố. Sau biến
cố tháng 4 năm 75, Trần Trịnh không còn mấy quan tâm đến công việc sáng
tác. Ông chỉ chú trọng đến việc cộng tác với hết đoàn hát này đến đoàn
cải lương hay gánh xiệc khác để mưu sinh. ... Mãi đến năm 1982, khi các phòng trà được phép hoạt động
trở lại, ông mới quay về Sài Gòn làm nhạc trưởng tại phòng trà Đệ Nhất
Khách Sạn là nơi ông đã từng giữ vai trò then chốt về chương trình từ
khi mới khai trương vào đầu thập niên 70. Đây có thể coi như một ban
nhạc có một thành phần đông đảo nhất với 11 nhạc sĩ. Liên tục
đóng đô tại phòng trà (sau là vũ trường) Đệ Nhất Khách Sạn suốt gần 10
năm, Trần Trịnh sang cộng tác với vũ trường Maxim’s vào năm 1991. Nhưng
sau hơn 3 năm, ông đã xin nghỉ khi bị tai nạn khi ông đang chạy trên
một chiếc xe gắn máy khiến ông bị thương nặng ở chân. Do tai nạn đó, đến
nay Trần Trịnh vẫn cần phải dùng gậy trong việc đi đứng. Sau
khi tĩnh dưỡng 6 tháng, vợ chồng Trần Trịnh cùng 2 con lên đuờng sang Mỹ
theo diện ODP vào tháng 10 năm 1995 bằng sự bảo lãnh của người chị ruột
ông là vợ của cố giáo sư Nguyễn Đình Hòa. Nhưng chỉ sau 3 tháng ở với gia đình
người chị ở San Francisco, gia đình Trần Trịnh quyết định dời xuống
Orange County. Nhưng thật sự hoạt động của ông chỉ duy trì được một
tầm mức trung bình trong thời gian đầu, khi mà ông còn kiếm được lợi
nhuận nhờ làm hoà âm cho một số trung tâm nhạc ở nam California. Nhưng
chỉ một thời gian sau, khi tình trạng băng đĩa từ Việt Nam càng ngày
càng đổ qua ào ạt khiến nhiều trung tâm nhạc cũng như nghệ sĩ độc lập
phải chùn bước trước trước sự cạnh tranh đáng ngại này.
Bởi vậy, khả
năng âm nhạc của ông cũng đã không còn được sử dụng. Tài năng ấy
bây giờ chỉ nhắm vào việc hoạt động trong một ban nhạc có tên là The
Stars Band gồm một số nhạc sĩ lớn tuổi, hợp nhau lại để trình diễn trong
những sinh hoạt có tính cách cộng đồng. Ngoài Trần Trịnh, The
Stars Band còn có các ca nhạc sĩ Quang Anh, Thanh Hùng, Phạm Gia Cổn
(cũng là một vị võ sư!), ... Nói về nhạc phẩm Lệ Đá trước đây, nhà thơ Hà Huyền Chi cho biết:
Ngó lui mấy chặng đường Lệ Đá
-
Nhạc phẩm “Lệ Đá” trước hết không phải là một bài thơ phổ nhạc. Phải
nói là tôi đã đặt lời cho bản nhạc (vốn không tên) của nhạc sĩ Trần
Trịnh.
Do một cơ duyên đặc biệt, do người bạn tên Đông chơi Clarinet,
giới thiệu Trần Trịnh đến với tôi, khi đó Trần Trịnh (giữa thập niên
1960) chưa có nhiều tiếng tăm trong làng tân nhạc thời bấy giờ:
- Nhạc Trần Trịnh khá lắm, nhưng rất ít người biết đến. Xin anh giúp thằng bạn em một lần, đặt lời ca giùm cho nó.
Tôi liền lắc đầu : “Em biết là anh vốn mù nhạc mà !”
- Em biết chứ, nhưng em thành thực nghĩ rằng chỉ có anh mới giúp được nó.
Còn Trần Trịnh cười hiền lành nói thêm :
- Xin anh giúp cho. Tôi nghĩ là sẽ có cách…
Bấy giờ tôi thẳng thắn đặt điều kiện :
-
Nể thằng em, coi như tôi chấp thuận trên nguyên tắc. Tuy nhiên, tôi cần
nghe anh đàn bản nhạc này vài lần để có khái niệm về nhạc tính. Và tôi
cũng cần ý kiến thẩm định về nhạc thuật của bài này với những Pianist
như Dzương Ngọc Hoán (chồng Pianist, ca sĩ Quỳnh Giao)
Chúng
tôi kéo nhau lên đài phát thanh Quân Đội, Trần Trịnh ngồi vào piano.
Và
điều ngạc nhiên là tôi ưa ngay cái âm hưởng buồn ngất ngây dịu nhẹ đó,
rất Pianissimo ấy. Melody thật tha thiết, ngọt ngào, bắt nhĩ.
Khi ấy
Đông đã kéo Dzương Ngọc Hoán qua và Hoán khen bản nhạc này không tiếc
lời, khiến tôi có ngay quyết định giúp Trần Trịnh.
Tôi nghe Trịnh đàn
thêm vài lần nữa và cố gắng nhập tâm cái âm hương của bản nhạc.
Hôm
sau, tôi đem đến Trần Trịnh lời ca thứ nhất của Lệ Đá. Kết quả ngoài
sức tượng tượng, là không biết bằng cảm hứng nào đó, tôi đã hòa được cái
rung cảm đích thực của thơ tôi vào nhạc Trần Trịnh.
Trần Trịnh mừng rỡ
tới sững hồn. Anh và Hoán cùng hân hoan hát Lệ Đá khiến tôi cũng choáng
ngợp trong niềm vui.Lập tức tôi viết lời 2. Buổi
trưa nắng gắt, dưới mái tôn thấp lè tè của quán cơm lính trong trại.
Trên chiếc bàn bọc nhôm nóng bỏng, cáu bẩn, tôi thả hồn bay với Lệ Đá.
Tôi viết thật dễ dàng, và khóc cũng dễ dàng với lời 2 này.
Tôi
cứ vừa viết vừa khóc thế đó, như khi ngồi chép lại những dòng nàỵ Tôi
bỏ dở bữa ăn, đem lời 2 lên đài Quân Độị gặp Nhật Trường trước phòng vi
âm.
Tôi đưa Lệ Đá ra khoe, Nhật Trường hát ngay với nỗi hân hoan bốc
lửa. Hắn túm ngay lấy Trần Trịnh đòi soạn cấp kỳ hoà âm cho ban nhạc và 2
bè khác cho Mai Hương, Như Thủy ca.
Khoảng nửa giờ sau Lệ Đá được thâu
cấp kỳ. Nhật Trường, Mai Hương, Như Thủy, mỗi nguời trên tay một bản Lệ
Đá “mì ăn liền” say mê hoà ca với nỗi xúc động đồng thiếp. “Take one
Good take !” Hát và thâu hoàn chỉnh ngay lần thứ nhất. Nhật Trường như bay ra khỏi phòng vi âm ôm lấy tôi và Trần Trịnh :
- Ông đặt lời thần sầu. Bản này sẽ là Top Hit.
Tôi nhún nhường:
- Top Hit được là nhờ nhạc Trần Trịnh bay bổng như diều đấy chứ.
Nhật Trường cướp lời :
- Nhưng ông là gió lớn. Đại phong mà…
Lời bài hát Lệ Đá sáng tác cuối thập niên 60
Hỏi đá xanh rêu…bao nhiêu tuổi đời
Hỏi gió phiêu du…qua bao đỉnh trời
Hỏi những đêm sâu… đèn vàng héo hắt
Ái ân… bây giờ là nước mắt /
Cuối hồn một… thoáng nhớ mong manh
Thuở
ấy tôi như… con chim lạc đàn /
Xoải cánh cô đơn…bay trong chiều vàng
Và ước mơ sao…trời đừng bão tố
Để yêu thương… càng nhiều gắn bó
Tháng ngày là… men say nguồn thơ....
.
Điệp khúc
Tình yêu… đã vỗ… cánh rồi
Là hoa.. rót mật… cho đời
Chắt chiu… kỷ niệm… dĩ vãng
Em nhớ gì… không em ơi
Mầu
áo thiên thanh… thơ ngây ngày nào
Chìm khuất trong mưa… mưa bay rạt
rào
Đọc lá thư xưa…một trời luyến tiếc
Nhớ môi em…và mầu mắt biếc
Suối hẹn hò… trăng xanh đầu non
Lời bài hát Lệ Đá (2) sáng tác cuối thập niên 60
Tượng
đá kiên trinh… ru con đời đời / Là nét đan thanh… nêu cao tình người /
Là ánh chiêu dương… đẩy lùi bóng tối / Tháng năm xa… trùng trùng sóng
gối / Ngóng nhìn từ… bát ngát chân mây
Bài hát ca
dao… theo tôi vào đời / Và giữ cho tim… tôi xanh nụ cười / Nào biết
trong em… còn nhiều trống vắng / Trái yêu đương… chỉ là trái đắng / Gã
tật nguyền… buông trôi niềm tin
Điệp khúc
Tình yêu… đã vỗ… cánh rồi / Là hoa… rót mật… cho đời / Chắt chiu… kỷ niệm… dĩ vãng / Em nhớ gì… không em ơi
Tương
đá kiên trinh… ôm con đợi chồng / Nhạc lá thu mưa… hay chân ngựa hồng /
Lệ đá tuôn rơi… dòng dòng nối tiếp / Ngóng chinh phu… đời đời kiếp kiếp
/ Suối vọng tìm… trăng xanh đầu non
Cái ma kiếp
của một bài ca được yêu chuộng thường yểu tử, và xuống cấp.
Nhưng Lệ Đá
thì không. Nó may mắn thoát khỏi định số ước lệ ấý. Vào những năm 67, 68
nhạc phẩm “Lệ Đá” được cất tiếng thường xuyên hầu như ở khắp mọi sinh
hoạt văn nghệ mà thời kỳ này nhạc Trịnh Công Sơn đang được mọi người hâm
mộ. Lệ Đá góp mặt hàng đêm ở các phòng trà, tiệm nhảy.
Lệ Đá vào khuê
phòng, ra máy nước.
Rồi quán cà phê cũng Lệ Đá, phim ảnh cũng Lệ Đá với
tiếng hát Khánh Ly, phim do Thanh Nga, Đoàn Châu Mậu diễn xuất, và Bùi
Sơn Duân đạo diễn.
May sao, Lệ Đá vẫn chưa trở
thành nhạc sến, nhạc đứng đường.
May sao, tôi vẫn được yên thân, bởi vẫn
giữ kín cơ duyên “nhảy dù” vào nghề viết lời nhạc. Để mọi người đều
hiểu lầm rằng Trần Trịnh phổ thơ tôi....
Với tôi, Sài Gòn muôn đời vẫn là chốn phồn hoa đô hội, nơi tôi mong muốn
được đến, đến để rong chơi, đến để tìm hiểu. Chứ bảo đến để sống, để
lập nghiệp, chắc tôi phải suy đi nghĩ lại nhiều lắm.Hồi nào tới
giờ tôi chỉ nghe nói người này là người Huế, người kia là người Hà Nội,
người nọ là người Nha Trang,... chứ tôi chưa nghe ai xưng mình là người
Sài Gòn bao giờ. Tôi nghĩ rằng Sài Gòn là nơi người tha phương đến lập
nghiệp, lâu dần bén rễ, cho nên mới nhận là người Sài Gòn. Và đa số
những người ngụ cư lâu đời ở Sài Gòn mỗi khi nói đến gốc gác của mình,
họ vẫn nói “tui là người Hà Nội di cư vào Nam” hay “quê quán của tui ở
Nghệ An, Thanh Hóa”... Tính cách của người dân sống ở Sài Gòn rất
dễ dàng cho tôi nhận ra được những nét đặc biệt của họ. Họ xuề xòa dễ
dãi, hiếu khách và giàu tình cảm. Một khi thi ân họ bất cầu báo, đã giúp
đỡ ai là họ giúp một cách tận tâm và nhiệt tình.
Có lẽ câu “bán anh em
xa mua láng giềng gần” đã ngấm vào máu, cho nên đã tạo nên lối sống và
cách cư xử rất đặc thù của những người dân Sài Gòn chăng! Và cũng
có lẽ vì những buổi đầu tiên trên bước đường tha phương cầu thực, họ đã
gặp biết bao nhiêu sự trắc trở, khốn khó nơi xứ lạ quê người, cho nên
họ dễ thông cảm với những kiếp người phải lìa bỏ nơi chốn nhau cắt rốn
đi tìm kế sinh nhai như những gì họ đã từng trải qua.Nói đến
“người Sài Gòn,” tôi lại chạnh nhớ đến “cô hàng nước” mà tôi đã mon men
làm quen lúc gia đình vào Sài Gòn chờ chuyến bay đi đoàn tụ ở Mỹ vào đầu
năm 1986. Có thể nói cô là một tổng thể của người Sài Gòn, rặt chất Sài
Gòn mỗi khi tôi nhớ về chốn ấy. Thật ra bây giờ hỏi tên cô là
gì, vóc dáng ra sao... tôi không thể nào nhớ nổi, vì chỉ mới gặp gỡ và
quen nhau vỏn vẹn có một tuần lễ thôi. Sau đó tôi ra đi biền biệt, chưa
một lần có dịp trở về thăm lại chốn xưa, hòng tìm lại người xưa để nhắc
lại chuyện xa xưa mà có lẽ chính cô cũng chẳng còn nhớ tôi là ai của
những ngày xưa nữa....Nhà cô ở Chợ Lớn. Trước nhà là quán nước
có kê một chiếc bàn và dăm ba chiếc ghế đẩu cũ kỹ. Cô bán linh tinh vài
loại nước giải khát, nào là xá xị, nước cam, và một thứ nước ngọt có ga
từa tựa như 7-up hay Sprite, tôi nhớ mang máng hình như li-mô-nát thì
phải. Bên cạnh đó là tủ thuốc lá, bày dăm gói Hoa Mai, Ðà Lạt, Vàm Cỏ,
Sài Gòn Ðen, và lèo tèo vài gói thuốc ngoại Zet, Si-Mit...Lúc đó
nhờ bán được một mớ băng nhạc cát-sét, rủng rỉnh tí tiền nên tôi tập
tành làm người sành điệu ăn chơi vung vít. Chiều xuống tôi thường tém
thùng, tóc tai chải gọn gàng, diện giày cho ra dáng công tử vườn lạc
bước đến Sài Gòn hoa lệ. Lang thang vô quán của cô, tôi tay kéo ghế,
ngồi tréo chân, miệng e hèm gọi nước, không quên kêu thêm vài điếu thuốc
có cán, điếu vắt mang tai, điếu cắm vô mồm, ngậm lệch một bên, nheo
nheo mắt mơ màng thả khói (bây giờ mỗi lần nhớ lại những trò khế khế đó,
tôi còn rùng mình sởn cả da gà da ngỗng, không hiểu bà nhập hay sao tôi
lại có thể cả quỷnh đến như vậy) .Cô hàng nước mặc xác tôi thỏa
thuê tác điệu, miệng mím mím cười bưng nước và lấy thuốc ra cho khách,
xong rồi khều nhẹ một câu, “Anh ở đâu dô đây dậy!”Tôi giật thót người:-Tui là dân ở đây mà! -Xạo! -Sao chị biết?Thứ nhứt, hông ai kêu tui bằng chị giống như anh. Thứ hai dân Sì Gòn bi
giờ hổng có ai ăn diện kỳ cục như anh hết. Thứ ba là anh nói tiếng gì
khó nghe thấy bà nội!Tôi biết là tôi đã lộ tẩy là tên nhà quê
chính hiệu rồi, nên đành nhe răng cười trừ. Cô thấy tôi ngố nên cứ hỏi
dồn hỏi dập, rồi cô ôm bụng cười nghiêng ngửa mỗi khi tôi nói thứ tiếng
quái quỷ gì “lạ quắc lạ quơ.”Tôi là tên nhà quê chứ tôi không
phải là tên nhát gái. Biết tỏng là cô thích nhái giọng, cho nên tôi cứ
lôi giọng nói nặng trình trịch ra xài, mục đích để được cô gần gũi sửa
giọng giùm.-Anh gì đó ơi, có quỡn tới đây em dạy anh nói giọng Sì Gòn nhen anh!Có ngu lắm mới không ừ cho lẹ.Kể
từ đó trở đi tôi rất siêng lui tới, có hôm đến hai ba bận. Giọng Sài
Gòn là giọng nghe ngộ lắm, viết một nơi phát âm một ngả. Thí dụ cô hỏi
tôi chừng nào thì đi Mỹ. Tôi nói đang đợi chuyến bay, và có lẽ Thứ Sáu
tuần sau là lên máy bay rồi.Cô phát lên cười sằng sặc: -Gì
mà “thứ sấu từng sâu” với lại “mứa bưa!” Phải nói là “thứ sáo tuần sao,
mái bai,” và nhớ phải đãi giọng ở cuối câu sao cho dẻo thiệt là dẻo mới
đúng điệu.Tôi cười he he:-Cô ơi, tui là dịt, cô là gừa. Cô cho dịt “ở chung” dứ gừa, thớ nào dịt cũng biết gứa òa óa oa...-Anh nói cái gì mà nghe mắc cười thí mồ đi!
Ngày lên đường cũng đã đến. Tối hôm đó cô đãi tôi một chai nước
li-mô-nát mà mỗi lần đến quán tôi hay kêu. Chính tay cô khui chai nước,
rót chầm chậm vào ly. Cô dùng móng tay quay quay viên đá lạnh, mái tóc
đen tuyền xõa xuống vai, che hết một bên mặt. Cô châm cho tôi điếu thuốc, tránh nhìn vào mắt tôi, cô nói nhỏ “anh qua đó nhớ viết thơ dìa nghe!” Tôi
rít một hơi thuốc thật sâu, thở ra nhè nhẹ. Khói thuốc làm nhạt nhòa
bóng dáng cô, và khói thuốc cũng làm cho tôi cay mắt quá. - Ờ! Tui nhớ. - Anh nói hổng đúng, phải nói là “Ừa! Anh nhớ!” Anh nói lại em nghe đi.Tôi
cười cười mà miệng không thể nào thốt lên thêm lời nào nữa hết, vội
quay lưng chỉ kịp thấy mắt cô hàng nước long lanh nước...Năm tháng đã vùn vụt trôi qua, tất cả giờ chỉ còn là kỷ niệm. Quán
nước nghèo gần bên Tòa Án Quận Năm chắc dâu bể lâu rồi. Cô hàng nước
bây giờ ra sao tui cũng hoàn toàn mù tịt. Lần mò dò hỏi chốn xưa, không
một ai biết con đường nhỏ trước bảy lăm có tên Lý Thành Nguyên ở Chợ Lớn
đã một lần đổi thành đường Lê Thị Riêng bây giờ mang tên gì nữa.Cô
hàng nước ơi, tôi vẫn còn nợ cô một món nợ mà tôi không thể nào trả
được. Không phải tiền nợ của điếu thuốc, của ly nước chanh lúc vội ra đi
quên trả. Cũng không phải là lời hứa của lá thư không bao giờ gởi về.
Mà là nợ về giọng nói dễ thương của cô, của người Sài Gòn đã từng chỉ
dạy cho tôi. Diệp Bảo Khương @@ tks t.g DBK .....!
“Những ý kiến tôi đã diễn tả trước đây, 15 năm, (97) cho đến nay vẫn còn đúng. Du Tử Lê, quả nhiên vẫn là một nhà thơ hiếm hoi. Anh vẫn một mình một
cõi. Đó là một điều đặc biệt. Và đối với một thi sĩ, thì đó là một sự
thành công. Bởi vì, thi sĩ phải là một thi sĩ riêng cho mình, không thể lẫn vào
một thi sĩ khác được. Du Tử Lê vẫn luôn luôn tìm cách làm mới tiếng nói
của mình. Tức là làm mới thơ của chính Du Tử Lê; cũng như góp phần làm
mới thi ca của người Việt Nam. Chúng ta biết thơ có hai cách diễn tả: Tự nguyên thủy, thơ là lời
nói, lời phát âm ra. Rồi, từ cả vài ngàn năm nay, loài người dùng chữ
viết, thành ra thơ cũng là một nghệ thuật dùng chữ viết, in ra nữa.Hai hình ảnh mà ta tiếp nhận thơ là nghe lời người ta nói và đọc bài
thơ trên giấy. Cả hai hình thức đó Du tử Lê đều tìm cách làm mới cả.
Nhiều người cho rằng Du tử Lê hơi cầu kỳ. Khi anh sử dụng rất nhiều
thứ dấu khác nhau. Như dấu phẩy, dấu chấm, dấu ngang, dấu dọc, gạch
chéo, gạch ngang…để làm cho thơ của anh khác thường. Nhưng tôi nghĩ, người thi sĩ có những lúc có nhu cầu là phải làm sao
để diễn tả được đúng tâm trạng của mình. Họ sợ rằng người đọc bài thơ
trên giấy không thấu hiểu hết ý của mình, nên phải dùng thêm dấu nọ dấu
kia, để theo đó mà người đọc thấu hiểu thêm. Thí dụ câu thơ dưới đây trong tập thơ mới của Du Tử Lê. Nếu tôi đọc những câu thơ này theo lối bình thường, tôi sẽ đọc là:
Người cho tôi vực khuya Đêm vọng nồng tiếng hát Những ngón tay xuân thì Bươi tìm tôi thất lạc.
Đó là những câu thơ rất đẹp.Nhưng nếu chúng ta theo cái cách của tác
giả diễn tả. (Tôi rất tiếc là không thể trình với quý vị nguyên văn của
bản thơ đó trên màn hình. Nhưng chắc chắn ban kỷ thuật sẽ làm được việc
đó.) Và khi người đọc được nhìn vào bản văn với những dấu chấm, dấu
phẩy, dấu gạch ngang, dấu hai chấm, dấu ba chấm của tác giả, người đọc
sẽ đọc nó khác đi một chút. Nó có thể sẽ là: Người cho tôi vực, khuya Đêm vọng, nồng tiếng hát. Những ngón tay xuân thì: Bươi, tìm tôi-thất-lạc.
Chữ “tôi-thất-lạc”, tác giả gạch giữa. Ba chữ đó là một tiếng mà
thôi. Chúng trở nên một cụm từ, dính liền nhau. Cái “tôi-thất-lạc”. Người ta thấy tác giả diễn tả một cái gì khác. Không phải là... tôi thất
lạc. Đó là một cố gắng của Du Tử Lê. Cố gắng làm cho tiếng nói và thơ của ông diễn tả đúng tâm trạng của ông hơn. Tuy nhiên, nếu quý vị thấy mình có thể tiếp nhận một cách khác, hoặc cho rằng tại sao lại phải cầu kỳ như vậy thì có thể tùy ý. Dù sao thì chúng ta phải nhận thấy rằng Du Tử Lê không phải là người cầu kỳ. Bởi vì người cầu kỳ thì thơ sẽ làm cho người ta kinh ngạc. Người ta sợ, mà người ta không yêu được. Chúng ta phải công nhận rằng Du Tử Lê đã thành công trong việc làm
cho nhiều người yêu thơ ông. Phải nói là, Du Tử Lê đã làm chủ được ngôn
ngữ mà ông đã sử dụng, là tiếng Việt Nam. Ông đã sống với nó, đã yêu nó.
Nhờ thế mà Du Tử Lê đã diễn tả được những điều rất giản dị, không cầu
kỳ; làm cho ai cũng hiểu và, tự nhiên mà nhớ. Tôi lấy thí dụ một câu thơ của Du Tử Lê đã trở thành ngôn ngữ hằng ngày của mọi người: “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu!” Thật ra câu này không phải dễ hiểu. Nhưng trong một số tình huống nào đó, thì nó lại là câu nói nói cửa miệng. Thí dụ một ông chồng gọi điện thoại cho vợ nói: “ Em ở đâu đó? Sao em hẹn anh ở ngã tư có cây xăng, mà sao anh không
thấy em đâu cả? Hay chắc là em đang ở chốn nhân gian không thể hiểu
rồi!” Vậy câu thơ trên đã trở nên ngôn ngữ thường ngày. Lâu lâu tôi lại nghe câu thơ của Du Tử Lê “ ở chỗ …,” lúc thì để diễn
tả một tâm trạng vui; cũng có khi để diễn tả một tâm trạng buồn. Tôi cho đó là thành công của một nhà thơ. Một thí dụ khác, một câu thơ khác của Du Tử Lê, cũng thường được dùng
để van lơn nhau, để khuyên bảo nhau, hay để than vãn với nhau: “ Đi với về, cũng một nghĩa như nhau.” Câu thơ này người ta cũng có thể nói trong lúc buồn: “ Thế anh mới đến chơi mà đã về rồi à?”“ Tôi vừa mới gặp cô Tiểu Muội, rồi cô lại đi Texas…” Có thể người nào đó sẽ nói: “Đi với về, cũng một nghĩa như nhau”. Hoặc mình có thể dùng câu đó để đùa với nhau cũng được. Một thi sĩ có những câu thơ thành ngôn ngữ hằng ngày của chúng ta, tôi cho đó là một thành công. Người thi sĩ đó đã sống bằng tiếng Mẹ đẻ của mình và, hòa nhập với
cộng đồng của những người cùng chung ngôn ngữ. Đó là một thành công. Có thể nói Du Tử Lê là một trong những người hiếm hoi, luôn luôn tìm
cách đổi mới. Nhưng lại không quá mới đến độ xa lìa cộng đồng cùng dùng
chung ngôn ngữ với mình.” Đỗ Quý Toàn
Trải dài suốt 20 km, các bãi tắm tại Shihanoukville
được chia thành nhiều khu vực khác nhau, phù hợp với các đối tượng khách
khác nhau.
Shihanoukville là thành phố trẻ nằm sát biển, cách thủ đô PnomPhenh 230km.Từ Saigon đến thành phố này có hai đường:Chạy từ Saigon qua cửa khẩu Mộc Bài – Tây Ninh đến
Phnom Penh, từ đó chuyển xe đi Shihanoukvill, giá khoảng 20 USD/người. Thời gian di chuyển khoảng 10 – 12 hr Vé bán tại các đại lý xe đi
Camphuchia trên phố Bùi Viện, Phạm Ngũ Lão.
Chạy từ Sgon đến cửa khẩu Kampot sát biên giới Hà Tiên, từ đây sang đến thành phố khoảng 2 hr đi xe, gần hơn rất nhiều.Occheuteal Beach và Serendipity Beach nằm ở khu vực
trung tâm là nơi này tập trung nhiều nhà nghỉ, khách sạn, các nhà hàng,
các công ty du lịch nhất Shihanoukvill với khu phố Tây nhộn nhịp về đêm
và những quán ăn suốt dọc ven biển.
Bạn có thể kiếm được phòng giá từ 6 –
7 USD/ người tại đây với những căn phòng sạch sẽ, duyên dáng và tiện
nghi.
Sokha Beach và Independence Beach nằm cạnh nhau được
coi là khu nghỉ riêng của những người có tiền. Hai khu nghỉ này hoàn
toàn khép kín với bãi tắm riêng biệt, các quán ăn nhà hàng nằm trong khu
nghỉ. Các cặp đôi lãng mạn và các gia đình có con nhỏ thường chọn khu
nghỉ này cho kỳ nghỉ của mình. Giá phòng tại đây khoảng 60 – 100 USD/
đêm.
Otres Beach, Hawai Beach, Victory Beach khá yên tĩnh.
Otres Beach có rất nhiều làng chài nhỏ nằm sát biển, tạo khung cảnh
thanh bình hiếm có cho người đến thăm. Bãi biển với bờ cát trắng mịn và
làn nước trong xanh.
Victory Beach là điểm ngắm hoàng hôn đẹp nhất trên
toàn Shihanoukvill, nơi có các quán bar nằm sát bên sườn đồi trông ra
biển và những buổi chiều lãng mạn trên những triền cát mịn.
Vào tất cả các tối, các nhà hàng dọc bãi biển phục vụ
hải sản tự chọn với giá 3 USD/suất. Các suất ăn có mức từ 3 – 8
USD/bữa/ người là thoải mái. Một cách khác để bạn thưởng thức hải sản
ngon, bổ và rẻ là tự mua hải sản trong khu chợ Cũ, nằm gần khu trung tâm
và mang về ăn tại khách sạn.
Tại khu chợ này, người Việt sang bán hàng
rất đông. Bạn có thể chọn cua, ghẹ, tôm hay ngao, sò huyết với giá rẻ.
Ngay trong chợ có quán chế biến. Sau khi chọn hải sản, bạn mang qua cửa
hàng này để chế biến và mang về nhà đồ ăn nóng sốt.
Đây cũng là cách ăn
hải sản được nhiều dân đi bụi chọn lựa. Lưu ý tại chợ, ghẹ được đánh bắt
tại Cam còn cua được mang từ Việt Nam sang.
Người Camphuchia sử dụng
đồng Riel và đồng USD để trao đổi mua bán.Bạn có thể sử dụng cả hai
loại tiền này. Ngôn ngữ tiếng Anh khá phổ biến.Đến Sihanoukville, sau khi tắm biển cả ngày và chơi
những trò chơi các trò chơi dưới nước, bạn có thể mua những tour đi về
trong ngày để khám phá những đảo lân cận như Bamboo Island, Koh Rong,
Koh Rong Samlon…
Giá tour đi trong ngày bao gồm xe đưa rước tại nơi bạn
ở, ăn trưa, nước uống và lặn biển khoảng 15 USD. Nếu bạn lựa chọn đi
khám phá thêm những khu rừng ngập nước cực thú vị, giá tour có thể lên
khoảng 25 USD. Trò chơi lặn biển và ngắm san hô này cực kỳ hút khách.
Với làn nước trong xanh đến tận đáy, bạn thỏa sức ngắm nhìn những đàn cá
đủ màu cũng dãy san hô đẹp mắt, bơi lội và chơi đùa dưới ánh nắng mặt
trời rực rỡSau một ngày hoạt động không mệt mỏi, hãy thư giãn với buổi spa hay
matxa chân ngay trên bãi biển gần nhà, đi dạo dưới bóng hoàng hôn.
Và
đêm về, nhớ mua thật nhiều pháo hoa để được tự tay tạo nên lễ hội đốt
pháo hoa tưng bừng trên bãi cát dài dưới ánh trăngnhạt, bầu trời sao
nhấp nhánh và tiếng sóng không ngừng.
Cho
hai tô cháo lòng ăn ở đây,” “Bán cho tôi một phần bún vịt xáo măng
to-go,” “Lấy cho tôi hai pounds đồ lòng đủ thứ, nhớ lấy phèo nhiều
nghen,” “Tính tiền giùm hai hộp cà ri dê này. Cân cho một pound nạc thăn
luôn”
Những lời
mua bán qua lại như thế cứ rộn ràng, nhộn nhịp suốt ngày tại nơi có tên
gọi “Chợ Tam Biên,” nằm gần ngân hàng Wells Fargo, trong khu thương mại
tại góc đường Bolsa và Bushard. Chợ Tam Biên không chỉ “là lạ” ở mô hình “one stop service” vừa là
“mini market” vừa là “food-to-go,” mà Tam Biên còn khiến người ta phải
quay trở lại, tìm đến nó, bởi sự bình dân, gần gũi chất chứa trong từng
mặt hàng bày bán lẫn cách phục vụ chừng mực, lịch sự mà không phải chợ
nào, tiệm nào cũng có thể tìm được tại Little Saigon. Chợ Tam
Biên, được mở từ 10/2009, đến nay, chưa hẳn là quen thuộc
với hầu hết những người nội trợ, bởi lẽ, mang tiếng là “chợ” nhưng người
ta không thể đến đây để mua bó hành, cọng rau, ký bún, cân cà, cũng
không ai đến Tam Biên để tìm mua bao gạo, chai dầu, con cua con cá..... Khách đến chợ Tam Biên là để mua lòng heo, mua gà tươi, vịt tươi, dê
tươi, và mua thịt heo “nóng.” Hay mua các loại chả, từ chả cá, chả
chiên, đến chả lụa, chả bì, giò thủ, chà bông, chả giò, giò sống, hay
nem bò, nem chua, đồ chua. Nhưng hơn hết, chợ Tam Biên được tìm đến là vì món cháo lòng nóng
hổi, thơm lừng mùi gừng, mùi hành, quyện trong tim, trong gan, trong
huyết, trong dồi, trong phèo, trong bao tử, mà giá chỉ có $3.5. Người ta
đến chợ Tam Biên còn là vì tô bún vịt xáo măng béo ngậy những miếng
thịt vịt không thoáng mùi lông, vì những hộp cà ri gà, cà ri dê, dê rựa
mận, bê thui,... chỉ với giá từ $5 đến $10 cho một người đến hơn hai
người ăn. Cứ nhìn cách người ta đến ăn ngay tại chợ, bất kể giờ nào, từ khi mở
cửa lúc 7 giờ rưỡi (am )đến khi gần đóng cửa lúc 8 giờ tối(pm ), hay cứ hết người
này đến người khác đến mua thức ăn mang về, cũng có thể hiểu được sự hấp
dẫn của các mặt hàng nơi đây đối với khách địa phương lẫn người từ
phương xa tới thưởng thức và cứ nhắc nhau phải trở lại Tam Biên ngay khi
có dịp. Với cách kinh doanh “one stop service,” những mặt hàng tươi được bày
bán tại chợ Tam Biên cũng chính là những mặt hàng được mang đi chế biến
thành món ăn để bán ngay tại chợ. Ðó có lẽ là lý do vì sao những mặt
hàng food-to-go tại đây có vẻ ngon hơn, tươi hơn và rẻ hơn nhiều nơi
quanh vùngOC . “Có thể nói đến 95% mặt hàng bày bán tại đây là do chúng tôi tự làm
lấy, tự chế biến lấy. Ðó là điều nhiều nơi khác không có. Chính vì tự
làm, từ heo, dê, gà, vịt, và mang chúng đi nấu thành những món ăn thuần
túy Việt Nam bán ngay tại tiệm nên chúng tôi chủ động được trong vấn đề
kiểm tra chất lượng các món ăn, các sản phẩm cho luôn phù hợp với thị
hiếu của khách hàng đa phần là người Việt Nam nơi đây.” Anh Linh Nguyễn,
một trong những người điều hành ngôi chợ nhỏ này, cho biết. Sống trong
nghề làm heo “cha truyền con nối” từ những ngày còn ở phường Tam Biên,
Biên Hòa, Ðồng Nai,VN, vợ chồng ông Chư Nguyễn, thân sinh của anh Linh
Nguyễn, cùng năm người con trai, sang định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1993,
mang theo bí quyết nghề nghiệp gia truyền, từ làm heo đến làm giò chả,
tiếp tục gầy dựng và phát triển sự nghiệp nơi xứ người Khởi đầu, theo anh Linh Nguyễn, Tam Biên chỉ là một chợ nhỏ “mini market,” bán thịt tươi như heo, lòng, dê, gà, vịt. “Rồi do nhu cầu của khách hàng muốn có thêm món này món kia nên từ từ
chúng tôi thêm vào trong các mặt hàng của mình, để bây giờ mô hình của
Tam Biên là một 'mini market' và 'food-to-go.'” Anh Linh chia sẻ. Khách đến chợ Tam Biên có lẽ dễ dàng nhận ra một điều, đó là không
khí gia đình, thân thiện, gần gũi. Không chỉ là mối quan hệ giữa chủ và
nhân viên, giữa nhân viên và khách hàng, mà còn cả ở những người khách
cùng ngồi thưởng thức tại chỗ các món ăn của chợ. Vì đây là chợ nên không thể trông mong mình có thể tìm được những
chiếc bàn ngồi riêng rẽ cho từng thực khách hay nhóm thực khách. Là chợ,
nhưng lại có chiếc bàn dài, kê thêm những chiếc ghế tựa cho những ai
muốn ghé ăn liền các món mình khoái khẩu, nên thì cứ thấy dư ghế, thấy
chỗ trống thì ghé mông vào. Không cần ngại ngùng, không cần e thẹn. Như
những ngày còn ở quê nhà, ghé vào quán trong xóm, bên đường, xì xà xì
xụp thưởng thức tô cháo gà, tô cháo lòng, tô cà ri, tô bún vịt, tô bún
bò...
Sẵn tiện mua thêm ít giò chả, hay giò sống, chả cá, hoặc dăm ba
pounds sườn non, nạc đùi còn tươi nguyên sắc đỏ về nấu bữa cơm gia đình,
hay mua ít lòng heo, hộp bê thui, dê rựa mận, hay dê xào lăn, dê tiềm
thuốc bắc... về nhâm nhi cùng bạn bè, người thân sau một ngày làm việc
để cùng cười, cùng vui, cùng “xả stress.” Một điều gì đó rất hiền lành, thật thà, đáng mến trong cách những
người chủ, tức vợ chồng con cái ông Chư Nguyễn, cùng làm việc, đối xử
với nhân viên, và nói chuyện với khách hàng, cả cách những người nhân
viên bê từng cái mâm mang thức ăn ra cho khách. Hối hả, khẩn trương, lẹ
làng nhưng không xô bồ, chụp giựt, ồn ào, dù rằng thế mạnh của chợ Tam
Biên là “food-to-go” chứ không phải là phục vụ thực khách tại chỗ. “Chúng tôi làm theo phương cách gia đình, nên cứ nghĩ món gì chúng
tôi nấu được, cảm thấy ngon miệng thì chúng tôi mang món đó ra giới
thiệu với khách.” Anh Linh nói một cách khiêm nhường, “Nhiều người thích
đến đây vì những món ăn đơn giản, không phải là xuất chúng, là ngon
nhưng tương đối ăn vừa miệng, trên trung bình, quan trọng nhất là giá cả
phải chăng, nên được bà con ủng hộ.” Quả thực, trong tình hình kinh tế hiện nay, bước chân vào chợ Tam
Biên, nhìn bảng giá cháo lòng chỉ có $3.5/tô, bún vịt xáo măng đủ cho
một thanh niên đang độ tuổi ăn tuổi lớn vừa ngon miệng vừa no bụng chỉ
có $5 một phần, hay hộp lòng heo đủ loại gần 2 pounds có sẵn hộp mắm
tôm, ít rau quế chỉ có $10, tương tự giá đó cho dê nướng, dê hấp, bê
thui, hay giò sống chỉ có $3/hộp, mua hai hộp $5, rẻ hơn rất nhiều so
với mua tại các chợ Việt Nam, sẽ là lý do để níu chân khách hàng quay
lại. Anh Linh chia sẻ, “Một hộp cà ri dê có thể 2 người ăn cũng được,
chúng tôi chỉ bán với giá $7. Tất cả đều cho chính tay chúng tôi nấu nên
xem như lấy công làm lời, góp gió thành bão.”
“Mỗi hộp
lụm vài cents” nhưng với lượng khách tìm đến chợ Tam Biên ngày càng
nhiều như hiện nay khiến chủ nhân ngôi chợ này quyết định phải mở thêm
một tiệm nữa tại góc đường Brookhurst và Westminster, trong khu Mall of
Fortune vào cuối tháng 4 hoặc tháng 5 tới đây, “chỉ tập trung vào bán
food-to-go và ăn tại chỗ, không muốn để mọi người phải chờ lâu, đợi
đông như hiện nay.” Mùi cháo lòng vẫn bốc lên thơm lừng trên chiếc mâm được người phục vụ
hối hả mang ra cho khách. Bên tô cháo nghi ngút khói, một đĩa giá trắng
ngần, một lát chanh thái nhỏ, và ớt đỏ, và giò cháo quảy vàng rộm. Chỉ
vậy thôi, mà người ta truyền tai nhau về một ngôi chợ nhỏ có tên Tam
Biên giữa lòng Little Saigon. Ngoc Lan @@ woa, cháo lòng ngon ngon , tks t/g NLan!!