Vợ chồng anh Lộc chị Tú quen với chúng tôi đã lâu. Lộc Tú là một cặp
rất xứng đôi vừa lứa. Họ nhỏ người và nói tiếng Huế cũng nhỏ nhẹ như
nhau. Vợ tôi nói họ giống nhau như hai anh em ruột chớ không phải vợ
chồng. Tôi nói: “Anh đọc trong sách thấy có nói vợ chồng ăn ở lâu năm
thường giống nhau”. Vợ tôi cười rồi giải thích: “Họ sống chung trong một
ngôi nhà, ăn uống theo một cách, lâu quá tất nhiên phải giống nhau.”Lộc,
Tú là người Huế. Tôi gọi họ là “Huế nguyên chất”. Vợ tôi lại nói họ là
“Huế đặc sệt”. Hai người rất tốt, lúc nào cũng vui vẻ niềm nở. Cả hai
đều khôn ngoan và tế nhị như nhau. Họ có những tình cảm vụn vặt rất dễ
thương. Đến cả ngày sinh mấy đứa con tôi họ cũng nhớ và thường mang quà
sinh nhật đến. Anh nói tiếng Huế nhỏ nhẹ mà lại có duyên, chị có tài
làm bếp. Chị nấu ăn cầu kỳ khéo tuyệt. Riêng cái món nước mắm của chị
đã làm cho vợ chồng tôi mê rồi. Theo chị, mỗi món ăn phải có một một thứ
nước mắm chế biến riêng. Chị có cả chục cái công thức bào chế nước mắm
dùng riêng cho từng thứ như bánh bèo, bánh xèo, bánh cuốn..Còn ớt thì
dùng loại xanh, đỏ, ớt bột, ớt ngâm giấm hay ớt xào quánh lại như mứt.
Mỗi lần được chị đãi ăn tôi đếm trên bàn ít nhất cũng mười món. Mỗi thứ
một ít đựng trong loại chén dĩa nhỏ xíu. Tôi nói nhỏ với vợ : “Giống như
cho chim ăn !”
Vợ tôi thì nói : ” Cho mấy ông tướng ăn theo kiểu thanh
cảnh này giống như cho trâu bò ăn hoa mẫu đơn. Ngưu thực mẫu đơn”. Nhà
của họ sạch sẽ ngăn nắp, khó tìm ra cái rác. So với cuộc sống của họ thì
vợ chồng tôi thua xa. Chúng tôi là người Nam nên sống bừa bãi hơn. Thế
mà chúng tôi chơi rất thân nhau.Cặp này rất kỹ lưỡng, họ kỹ
lưỡng quá mức. Họ sống theo kiểu cổ và còn tin vào chuyện huyền bí. Chị
Tú nói về con ma chẳng khác chúng ta nói về chiếc xe đạp. Chị kể chuyện
ma một cách hết sức tự nhiên. Tôi còn nhớ có lần ngồi chơi với chị ở nhà
ngang vào buổi trưa, chị nhìn ra cửa nói: ” Bác Cả về đó!”. Tôi chẳng
nhìn thấy ai, tôi hỏi : “Bác Cả nào? Tôi có thấy ai đâu?”. Chị nói: ”
Bác của anh Lộc ngày trước ở cái nhà này. Ổng chết hồi tháng chạp năm
ngoái!”. Tôi lạnh xương sống, hỏi lại : “Sao tôi chẳng thấy gì?” Chị
nói: ” Anh thấy con chó mực đang nằm nó đứng dậy vẫy đuôi đó!”.Chị
Tú nhìn đâu cũng thấy ma, còn anh Lộc nhìn đâu cũng thấy điềm lành,
điềm dữ. Thời gian này chúng tôi sống xa nhau. Anh làm ở Bưu điện Huế,
còn tôi làm việc ở Toà án Ban Mê Thuột.Hôm nay tôi vừa nhận được
giấy đổi ra Huế. Chúng tôi chẳng buồn chẳng vui vì đời sống công chức
đâu có được ở yên nơi nào. Tôi đánh một cái điện ra Huế nhờ anh chị tìm
giúp cho chúng tôi một ngôi nhà. Vài ngày sau tôi nhận được thư anh, họ
nói rất vui vì hai gia đinh có dịp ở gần nhau. Nhà anh chị thuê cho tôi
đã có, nhà ở gần Toà án rất tiện nhưng còn phải sửa chữa và quét vôi
lại. Đến ngày tôi lên đường, máy bay vừa đáp xuống phi trường Huế đã
thấy anh chị đem xe ra đón. Chúng tôi tay bắt mặt mừng. Lên xe Lộc
lái, tôi ngồi một bên. Tú và vợ tôi ngồi phía sau, hai người nói đủ thứ
chuyện. Tôi chỉ chú ý đến việc cái nhà. Anh chị nói đã xong nhưng mời
chúng tôi ở lại nhà họ vài ngày. Tốt ngày hãy dọn tới nhà mới.Nhà
Lộc Tú là một ngôi nhà kiểu cổ có vườn rộng, có hàng cây chè tàu cắt
xén rất đẹp bao chung quanh . Nhà nằm trên con đường Nguyễn Hoàng gần
cầu Bến Ngự. Đến nơi anh chị dẫn chúng tôi đi chỉ chỗ nghỉ. Lộc nói :– Ông thì ngủ phòng này, đồ đạc cất chỗ ni!Chị Tú nói :– Còn bà thì ở phòng bên kia, có cái bàn phấn với cái tủ móc áo dài.Vợ tôi nhìn tôi, một cái nhìn rất lạ. Tôi chưa hiểu thì chờ khi Lộc Tú đi xa, vợ tôi nói: Đó anh thấy chưa? Họ kỹ đến thế! – Em nói họ kỹ chuyện gì? – Bộ anh không thấy sao ? – Không. – Anh chị không để vợ chồng mình ngủ chung! – Ừ nhỉ, nhưng tại sao ? –
Ông thiệt là ngốc. Vợ chồng ngủ chung có gì thì xui cho họ chứ sao ?
Hai anh chị chuẩn bị cho hai vợ chồng mình hai cái phòng để ngủ riêng là
với cái ý đó!À ra thế; bây giờ tôi mới vỡ lẽ.Bữa cơm
tối đầu tiên thịnh soạn và vui lắm. Tôi lại được thưởng thức mấy món ăn
tiêu biểu của xứ Huế sông Hương núi Ngự như tôm chua, trái vả chấm ruốc,
cá bống thệ kho rau răm… Chúng tôi hàn huyên tâm sự, kể lại biết bao
nhiêu kỷ niệm lúc còn đi học. Anh Lộc hỏi tôi về công việc ở Toà án.
Chị Tú và vợ tôi hỏi nhau về những người bạn cũ. Chị Tú nhớ rất rõ, nhớ
mọi chuyện, mọi người. Có người vợ tôi đã quên tên mà chị Tú còn nhớ cả
màu áo của họ mặc lúc đi thi tú tài.
Anh đem một hũ rượu Ngũ gia bì,
màu đen da lươn, có dáng như quả bầu nậm nhỏ bên ngoài dán cái nhãn chữ
Tàu đỏ. Anh mở khằn rót ra đầy bốn cái chung nhỏ. Loại chung hạt mít,
rượu ngon lắm, nhưng đối với hạng bợm nhậu Nam bộ như tôi không quen
uống theo cái kiểu thanh cảnh này. Chị như hiểu ý rót mãi, Mỗi
chén tôi hớp một hớp. Thế rồi anh chị Tú thay phiên rót rượu cho tôi.
Một lúc sau tôi nghi ngờ, hay là họ phục rượu mình để đêm nay mình đánh
một giấc tới sáng đừng tính chuyện lôi thôi xui cho họ ? Nhưng họ đã
lầm, dân nhậu hũ chìm như tôi thì cái thứ rượu này ăn thua gì ! Sau buổi tiệc chúng tôi còn ngồi uống nước trà và nói chuyện với nhau đến mười giờ. Lúc này Lộc đứng lên nói : – Thôi đi ngủ hè? Em dẫn chị vô phòng chỉ chỗ bật đèn, còn anh đi theo tui!Như
có sự xếp đặt trước. Lộc Tú “áp giải” vợ chồng tôi đi ngủ. Tôi lên
giường nằm và quan sát. Phòng tôi có cái giường nệm; mền gối trắng tinh.
Phòng vợ tôi cạnh bên, hai phòng có cửa thông nhau. Tôi đẩy thử cửa thì
thấy không khoá. Vợ tôi thấy tôi đẩy cửa thì hết hồn nhỏm dậy ra dấu
đuổi tôi. Tôi chỉ vào chìa khoá, vợ tôi gật đầu làm như hiểu. Tôi trở
lại giường mình.Tôi nghe phòng bên cạnh có tiếng Lộc và Tú nói
chuyện. Tôi cười thầm , tôi chắc họ phân công người thức người ngủ để
canh chúng tôi. Đã khuya mà bên phòng Lộc Tú còn đèn sáng trưng, ánh
sáng chiếu qua phòng chúng tôi tuy không sáng lắm nhưng đủ để quan sát. Anh chị Lộc Tú tính toán rất kỹ nhưng như người ta thường nói : mưu sự
tại nhân thành sự tại thiên. Anh chị quên rằng tôi là dân nhậu thì bao
nhiêu rượu đó ăn thua gì, còn vợ tôi thì lạ chỗ cũng không ngủ được. Cuối cùng bên đó tắt đèn và có tiếng ngáy đều đều. Họ không thức canh
nổi vì hôm nay họ uống rượu nhiều hơn ngày thường. Và tôi rón rén bước
xuống đẩy cửa qua phòng vợ tôi. Sáng hôm sau trong bữa điểm tâm
tôi thấy anh chị lén liếc xem mặt mày vợ chồng tôi có còn vết tích gì
của cuộc “chiến tranh” đêm qua hay không ? Ngày hôm sau chúng tôi từ giã
anh chị tới ở nhà mới. Anh chị thực là người chu đáo. Căn nhà anh chị
thuê cho, chúng tôi rất vừa ý. Cuộc sống và việc làm của tôi ở Huế diễn
ra bình thường. Thỉnh thoảng hai gia đình chúng tôi vẫn gặp nhau. Thời
gian này tôi luôn luôn thầm lo sợ lỡ có chuyện gì xảy ra cho gia đình
Lộc Tú chắc họ nói là tại chúng tôi. Cuối năm một chuyện náo động cả
thành phố Huế : Lộc Tú trúng số độc đắc!Thiên hạ ai ai cũng nói
nhờ anh chị ăn ở phúc đức đi chùa đi miễu, cúng kiến thành tâm nên được
trời đất thương cho hưởng lộc. Còn riêng vợ chồng tôi lại nghĩ rằng họ
trúng số là nhờ chúng tôi !!
Bữa tối tại nhà của chú rể, mọi người đang nhiệt liệt đón tiếp nàng dâu mới về. Cô
dâu bắt đầu lên tiếng: "Mến chào tất cả người nhà thân thương của con. Con rất cám ơn mọi người đã đón tiếp con vào gia đình mới một cách nồng
nhiệt. Trước hết, con xin mọi người hãy an tâm là sự gia nhập của con
quyết sẽ không làm thay đổi đời sống và những công việc bình thường hằng
ngày của quý vị." Bố chồng hỏi: "Ý của con là..?" Con dâu trả lời: "Ý con muốn nói là những người rửa chén nên tiếp tục
rửa chén. Những người giặt áo quần cũng xin giữ yên như vậy. Còn ai phụ
trách nấu cơm thì xin đừng vì sự có mặt của con mà ngưng nấu cơm. Còn
ai lo chuyện quét dọn thì vẫn tiếp tục quét dọn. Mẹ chồng hỏi: "Thế thì cô đến đây để làm gì?" Nàng đâu bình tĩnh trả lời: - "Dạ, con ấy à? Oh ,công việc của con là đến đây làm vui lòng con trai của mẹ muh !" St .net
Chiều nay chỉ mình em nơi đây
Lòng trống vắng lạnh lẽo quá!
Chẳng phải cái lạnh mùa đông Trong tim em bao nhức nhối
Lòng em se sắt âu sầu Nhưng anh sao vẫn vô tâm ?
Em gắng nuốt lê vào trong
Dẫu biết tình yêu xa cách
Hay ai kia thay lòng đổi dạ
Cuốn bao yêu thương vào dĩ vãng
Tình mình nay chỉ là hư ảo
Đường trần ai hiểu thấu lòng ta
Em đành chấp nhận chia tay nhau
Cho lòng thanh thãn nhẹ nhàng
ôi trái tim buốt giá ....
Camly
Còn những hơn 12 ngày nữa mới đến lễ Giáng Sinh mà văn phòng tôi đã
chuẩn bị làm “lễ thắp đèn” (tree lighting ceremony). Từ đầu tuần, bà
giám đốc đã gởi email thông báo cho toàn thể nhân viên biết ngày giờ để
tham dự ngày truyền thống này. Năm nào cũng thế, trước ngày lễ thắp đèn
vài ba ngày thì ông sếp của nhóm “Chuyên Viên Tìm Việc Làm” (Job
Developer), người có cái xe truck to tướng, sẽ xung phong đi khiêng về
một cây thông tươi cao đến gần 5 feet để trưng bày trong phòng họp phía
sau. Ban tổ chức ngày “Giáng Sinh Cho Trẻ” (Christmas For Kids) sẽ phụ
trách phần bày biện, trang trí căn phòng và cây thông cho đẹp đẽ hơn để
lũ trẻ có một khung cảnh rực rỡ chụp hình với ông già Noel. Trong
ngày “Giáng Sinh Cho Trẻ” này, sau khi ăn uống, chơi đùa và chụp hình
với ông già Noel xong xuôi, đám trẻ sẽ được hướng dẫn đi thăm thú cả văn
phòng để ngắm nghía và bỏ phiếu bầu cho unit nào trang hoàng hấp dẫn
nhất, vui nhộn nhất. Thế nên năm nào chúng tôi cũng lo trang trí khu
vực làm việc của mình cho bắt mắt để dành giải thưởng. Thật tình thì
giải thưởng chẳng có gì đặc biệt, chỉ là một cái cúp có hình ngôi sao và
một khay bánh quy đủ màu xanh đỏ, tím vàng... nhưng chủ yếu là tranh
giải cho vui. Hai năm liền, nhóm của tôi đã đoạt được giải trang trí
“tuyệt vời” vì những sáng kiến hay lạ của nhóm. Năm nay chơi nổi hơn,
chúng tôi sẽ bày cảnh Noel ở đảo Hạ Uy Di thần tiên có biển xanh, cát
trắng. Cả nhóm hùn tiền vào mua những vật liệu cần dùng rồi hoạch định
chương trình “hành động”. Chỉ trong vòng nửa tiếng là chúng tôi đã dán
xong những tấm phông ni lông có vẽ một rừng dừa tươi và vùng biển xanh
ngắt trải dài hai bên tường cubicle. Tania vác hết mấy cây đuốc với
những ngọn đuốc giấy đỏ hừng hực dùng cho Luau party ở nhà vào cắm dọc
theo hai bên bãi biển.
Cô nàng còn chịu khó khiêng cả cát trong sandbox
của đứa con nhỏ vào phủ dưới chân những chú người tuyết, mấy chú Tiki
và những gốc dừa kiểng nho nhỏ mà tôi đã mượn của chị Thu hàng xóm để
đem vào trang trí. Sylvia bắc thang treo những trái banh nhựa và lưới
bắt cá, bắt sò, lủng lẳng từ trên trần nhà xuống. Esther lo sắp xếp hai
cái cái ghế vải ngồi chơi, một cái sô nhựa với mấy cái cuốc, sẻng cào
cát, xúc cát màu đỏ, màu cam gọn ghẽ dưới tàn lá vàng hoe của cái dù che
nắng ở cuối góc phòng, con đường ra biển. Bên trên bức tường đó, Luz
đã dán thêm một tấm plastic màu xanh nước biển để làm phông cho tấm hình
ông già Noel đang trượt sóng với hàng chữ Mele Kalikimaka (Merry
Christmas). Còn bà sếp của tôi thì có nhiệm vụ đi tìm mượn mấy cái sà
rông và giây hoa đeo cổ để đến ngày “Giáng Sinh Cho Trẻ” chúng tôi sẽ
choàng vào chụp hình và tiếp đón phái đoàn trẻ đến thăm viếng vùng đảo
thần tiên.
Năm nay cũng thế, ngày lễ thắp đèn được tổ chức vào khoảng bốn giờ chiều
thứ Năm, khi mọi người đã có thể thoải mái một chút sau một ngày làm
việc mệt nhọc. Từ ba giờ rưỡi, người phụ trách công việc “thắp đèn” đã
đi đến từng unit nhắc nhở, để những nhân viên còn đang bận bịu với giấy
tờ, hồ sơ nhanh chóng lo thu vén công việc của mình. Đến gần bốn giờ
thì loa phóng thanh đã vang lên lời triệu tập nhân viên chúng tôi vào
họp ở phòng sau. Deborah, một người trong ban tổ chức ngày “Giáng
Sinh Cho Trẻ” đã đón chào chúng tôi ở ngưỡng cửa phòng họp với những cái
bánh quy làm bằng sô cô la, lúa mạch, bơ đậu phộng mà cô và đứa con gái
lớn đã nướng ở nhà. Những cái bánh thơm, mềm này được gói trong bao ni
lông có mang hàng chữ “Made With Love”, và được cột bằng giây nơ màu
xanh đỏ của mùa Noel. Sau khi trao gói bánh cho chúng tôi, Deborah nói: - Đừng quên ornament. Hot Chocolate và Christmas Carols ở cuối phòng. Chúng
tôi ghé ngang thùng giấy đựng đồ trang trí, chọn một món treo lên cây
thông, xong đi tới cuối phòng lấy sữa Chocolate nóng và xấp giấy có in
những bài ca mừng Giáng Sinh để chốc nữa sẽ cùng hát với nhau, rồi đi
tìm chỗ ngồi. Chờ khoảng chừng 15 phút cho mọi người vào yên vị trí
rồi Sharon, người phụ trách công việc thắp đèn, mới ra hiệu cho Deborah
xoay nút tắt những ngọn đèn nê ông ở trên trần. Căn phòng vừa chìm vào
bóng tối được chiếu sáng trở lại với những ngọn đèn màu xanh đỏ trắng
vàng rực rỡ trên cây thông. Những tiếng vỗ tay và lời chúc mừng Giáng
Sinh vang rộn khắp nơi. Đèn phòng lại được mở sáng lên ngay sau đó, và
ban hợp xướng của văn phòng bắt đầu cất tiếng ca với bài hát truyền
thống “Twelve Days of Christmas” (12 Ngày Của Giáng Sinh), trong lúc các
bạn đồng nghiệp ngồi nhấm nháp những ly sữa Chocolate nóng hổi.
Sau
khi ban hợp xướng ngừng hát thì toàn thể nhân viên chúng tôi sẽ nối tiếp
ngay với những bài hát quen thuộc của mùa Giáng Sinh: Jingle Bell
Rock, Santa Claus Is Comin’ To Town, Silent Night! Holy Night!, Rudolph
The Red-Nosed Reindeer, Let it snow… Hồi mới đi làm, Christmas nào
cũng nghe ban hợp ca của sở đi vòng vòng đến từng unit để cùng mọi người
hát bài “12 Ngày Của Giáng Sinh” suốt mùa lễ tôi đã lấy làm lạ, vì cái
bài hát gì mà có gà, có ngỗng, có bồ câu, có cây, có nhẫn, có người đánh
trống... lung tung. Rồi lại có cái màn đem thức ăn vào để chia sẻ với
nhau 12 ngày trước ngày nghỉ lễ còn làm tôi thắc mắc hơn. Chả lẽ Mỹ
cũng có nguyên tháng Mười Hai là tháng ăn chơi để tổ chức ăn mừng dài
hạn ngày Chúa Cứu Thế ra đời như Việt Nam mình đón mừng ngày Tết Nguyên
Đán hết gần cả một tháng Giêng? Tôi hỏi bà sếp lúc đó của tôi thì bà
giải thích như vầy:
“Đúng ra thì “12 Ngày Của Giáng Sinh” bắt đầu từ sau ngày lễ Chúa sinh
ra đời, chứ không phải là trước ngày lễ như mọi người vẫn lầm tưởng.
Theo những tài liệu mà bà đọc được thì “12 Ngày Của Giáng Sinh” bắt đầu
từ ngày 26 tháng 12 (The Feast of St. Stephen, lễ mừng Thánh Stephen),
và kéo dài tới ngày 6 tháng 1 (The Feast of The Epiphany, lễ Hiển
Linh). Khoảng thời gian này được xem như là thời điểm để mọi người hội
họp vui chơi và đem quà đến mừng chúa Hài Đồng. Vì là “Feast” thành ra
cái chuyện ăn uống cũng là một chuyện tự nhiên để hòa hợp với 12 ngày lễ
mừng này, nhưng tại sao lại trở thành 12 ngày ăn uống trước ngày lễ
Giáng Sinh thì bà không biết. Còn cái bài hát “12 Ngày Của Giáng
Sinh” thì không có ý nghĩa gì hết. Nó chỉ là một trò chơi xem người nào
có thể nhớ dai. Bài hát này được du nhập vào Mỹ năm 1910 nhờ cô giáo
Emily Brown, và được lưu truyền từ đó tới giờ. Theo cách thức của bài
hát này thì người chủ xướng sẽ bắt đầu hát trước, với câu hát thứ nhất,
rồi người thứ hai, thứ ba… tiếp nối, thêm vào một câu hát và lập lại câu
hát của người trước… cho đến khi một người tham dự trò chơi này quên
mất lời hát, thì phải chịu phạt. Hình phạt được giao hẹn trước khi
mọi người tham dự cuộc chơi, có khi là một cái đánh vào tay, có khi là
phải nộp cho những người trong cuộc những cái kẹo Chocolate nhỏ… Tuy
nhiên, có người đã bảo là bài hát này cũng là một lối giảng dạy giáo lý
cho trẻ em vì mỗi lời hát có một ý nghĩa riêng, mỗi “ngày” tượng trưng
cho một số khía cạnh của đức tin, chẳng hạn như “A Partridge in a Pear
Tree” (con chim đa đa trong cây lê) trong ngày thứ nhất, tượng trưng cho
chúa Hài Đồng, “Three French Hens” (ba con gà mái Tây) của ngày thứ ba
tượng trưng cho niềm tin, hy vọng và tình yêu...” Thức ăn trong “12
Ngày Của Giáng Sinh” ban đầu chỉ là những món ăn chơi (finger foods) để
nhấm nháp cho vui thôi, nhưng dần dà lại trở thành những bữa ăn trưa
thịnh soạn khi chúng tôi đem nào là Spaghetti (mì Ý), Pansit (phở xào
Phi), Tamales (bánh tét lúa bắp Mễ), Chowmein (mì xào), Gumbo (súp thập
cẩm của miền New Orleans), Cơm rang Dương Châu, Gỏi xoài tôm khô Thái
Lan, bánh ngọt, trái cây v.v... vào chia sẻ. Năm nay cái nhóm nhỏ của
tôi và hai nhóm “Dịch Vụ Hỗ Trợ Đặc Biệt” (Specialized Supportive
Services) bên cạnh đã họp nhau lại để tính toán xem nên đem những món ăn
gì nhâm nhi suốt 12 ngày trước Christmas, nhưng chúng tôi đã đồng ý với
nhau là chỉ đem những món nhẹ nhàng thôi vì còn phải để dành bụng tham
dự ngày tiệc Giáng Sinh của cả văn phòng nữa.
Và để cho hào hứng hơn,
chúng tôi sẽ thi đua xem ai có sáng kiến đem số món ăn hòa hợp với lời
ca mỗi ngày của bài hát hay không. Bà sếp tôi bắt thăm nhằm ngày
đầu tiên, chỉ đem một món thôi, bà bảo dễ quá, bà sẽ mua mấy hộp…
donut. Natashia bắt thăm được ngày thứ nhì, cô bảo sẽ làm hai món: cánh
gà chiên với bánh kẹp waffle, một món ăn truyền thống của vùng đất
phương Nam. Tôi bắt thăm nhằm ngày thứ ba, tượng trưng cho niềm tin,
tình yêu và hy vọng, tôi sẽ đem chả giò, hoành thánh chiên và fortune
cookies để bói vận may. Luz và Sylvia bắt thăm được ngày cuối cùng đã
hồ hởi bảo: Cả bao nhiêu ngày ăn món béo, món ngọt rồi, chúng tôi sẽ cho quí vị lọc
sạch ruột bằng những món rau quả tốt tươi, lành mạnh với cà rốt, cần,
dưa leo, ớt chuông ba màu đỏ, xanh, vàng, hai loại bông cải xanh, trắng,
cà chua sơ ri, ô liu hai màu đen, vàng, chấm ranch dip... là vừa con số
12. Gần một năm nay, từ sau khi tôi dọn về ở tại vùng thung
lũng thông xanh này, buổi sáng đi làm, khi xe tôi vừa rà tới bảng stop
của góc đường Hidden Valley và Rustic Glen thì tôi đã gặp ông đứng đó,
đưa tay lên chào tôi và nói “Good Morning”.
Tôi gặp ông đều đặn một
tuần lễ bốn ngày, từ thứ Hai tới thứ Năm. Thoạt đầu, tôi không để ý đến
ông vì hầu như sáng nào tôi cũng đi làm trễ, nên tôi chỉ có đủ thì giờ
để… phóng xe chạy, thì bảo sao tôi có dư thì giờ để nhìn xem ai đi, ai
đứng ở hai bên đường. Đôi khi, tới bảng stop mà tôi cũng không có thì
giờ ngừng lại hẳn hoi, chỉ nhấp thắng một chút rồi chạy tiếp, tại tôi cứ
ỷ y là góc đường này hơi xa đường lớn, vắng xe, và tảng sáng tinh mơ
nên chắc mấy ngài cảnh sát chưa ăn điểm tâm, uống café xong để đi tuần
tra, chứ cái món tiền phạt cho cái tội “rolling stop” này không phải là
ít ỏi. Ông là một ông già Á Đông, dáng nhỏ thó, nước da sậm đen, nửa
giống như người Ấn Độ, nửa giống người Campuchia. Ông đứng đó, cô đơn
và nhỏ nhoi. Bên cạnh chân ông là một cái giỏ màu xanh đậm, to như cái
giỏ đi chợ, chắc đựng thức ăn, nước uống. Mùa Hè, ông mặc một cái áo
khoác ngắn mong mỏng, còn mùa Đông thì ông co ro trong một cái áo dạ dầy
hơn, đầu đội thêm nón len, hai tay dấu kín trong găng. Mưa hay nắng gì
tôi cũng thấy ông đứng đó, một chỗ nhất định, trong góc trái của con
đường Hidden Valley, dưới chân gốc thầu dầu cổ thụ, như đang đợi chờ
ai. Một ngày, tôi đến đó trễ hơn một chút, thì thấy ông đang trèo lên
một cái xe Four Runner màu xám bạc, không kịp đưa tay chào tôi. Người
tài xế của chiếc xe này hình như cũng là người Á Đông, và ông có mái tóc
màu xám gần giống như màu chiếc xe. Tôi và người bạn buổi sáng
này gặp nhau được chừng hơn nửa năm thì trở thành… thân quen. Mỗi lần
tôi ngừng xe ở góc đường đó ông đều nhìn sang giơ tay chào tôi, nói Good
Morning. Lúc đầu thì tôi chỉ nhìn ông cười nhưng lần hồi thì tôi cũng
có thói quen đưa tay chào lại ông. Có hôm tôi đến góc đường này sớm
hơn giờ thường lệ, ông không để ý nên cắm cúi lục lọi cái túi để dưới
chân, tôi bấm còi cho ông nhìn lên để nói vọng sang chào ông buổi sáng. Gặp
nhau gần cả năm rồi mà cũng chẳng biết tên để chào nhau buổi sáng, thế
nên một ngày tôi cố gắng đi làm sớm để có chút thì giờ rảnh rỗi nói
chuyện với ông. Nhờ đó, tôi mới biết ông là người Phi Luật Tân, một dân
tộc láng giềng của tôi.
Ông tên là Tomas Reynoso, qua Mỹ đã được hơn
25 năm rồi, nhờ bà vợ của ông di dân sang trước, rồi về bảo lãnh ông Ông sinh trưởng tại Cavite, một vùng đất ven biển nằm phía Nam thành
phố Manila. Ông lên Manila học nghề y tá, rồi ở lại Manila làm việc cho
đến ngày sang Mỹ. Qua Mỹ, ông được nhận làm y tá ngay cho một nhà
thương nhỏ trong vùng Norwalk, vì ông biết nói lưu loát ba thứ tiếng:
tiếng Phi, tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Làm việc ở Norwalk được
khoảng hai năm thì hai vợ chồng ông xin được việc làm cao lương hơn ở
hai bệnh viện lớn trên vùng thung lũng thông xanh, nên ông bà dọn lên
vùng Pomona này ở. Sau một thời gian làm việc, hai vợ chồng ông để dành
tiền mua được một căn nhà cũ, nho nhỏ ở thành phố La Verne hiền hòa.
Ông bà có một đứa con trai độc nhất, tốt nghiệp kỹ sư điện toán từ đại
học CalPoly Pomona.
Gần sáu năm trước, bà vợ của ông, chưa tới tuổi về
hưu đã phải nghỉ ở nhà vì bệnh. Rồi bà bỏ ông ra đi sau những tháng
ngày dài phấn đấu với căn bệnh ung thư đường ruột. Buồn bã vì vợ mất
sớm nên ông bán căn nhà ở La Verne, cho con một phần tiền để mua một căn
nhà rộng hơn, hai tầng, trên con đường Oak Cliff trong vùng Phillips
Ranch, và dọn về ở với con. Còn một phần tiền ông đem về quê xây lại
căn nhà ở Cavite. Không ngờ ba năm trước kinh tế suy thoái, cả hai vợ
chồng con ông đều bị thất nghiệp, không đủ tiền trả tiền nhà, chúng phải
bán căn nhà cho người em bà con rồi đi sang Michigan nhận việc làm
mới. Lúc đó ông đang còn làm việc, nên không thể theo hai vợ chồng con
trai ông đi sang Michigan. Ông mướn lại một phòng của đứa cháu, đi làm
cho tới cuối năm ngoái. Năm nay ông đã về hưu rồi, nhưng nếu đi sang ở
luôn bên tiểu bang Michigan với con thì ông không chịu nổi thời tiết
lạnh giá của vùng bên đó. Ở nhà không có việc gì làm cũng buồn, nên ông
đi làm thiện nguyện, chăm sóc mấy người già ở một viện dưỡng lão mới mở
tại thành phố Montclair. Còn người đàn ông lái cái xe Four Runner đến
đón ông mỗi sáng tên là Kim, người Hàn Quốc. Ông Kim ở Rowland Heights,
cũng đã về hưu lâu rồi, và cũng đi làm thiện nguyện cùng một chỗ với
ông, nhưng ông Kim chỉ quen việc giấy tờ nên ông phụ giúp viện dưỡng lão
những công việc trên văn phòng. Ông Kim thấy ông Tomas đi về bằng xe
bus hoài cũng tội nên tình nguyện đón đưa ông Tomas mỗi ngày vì đằng nào
ông Kim cũng phải chạy ngang vùng này trước khi tới Montclair. Tôi gật gù: -
Ừ, tôi thấy nhiều người Phi làm y tá ghê nghen. Tại sao vậy há, bộ dân
tộc ông yêu chuộng cái nghề này lắm hả, hay là tại dễ dàng xuất ngoại?
Lại nữa, tôi cũng thấy nhiều người Phi nói rành rõi tiếng Anh và tiếng
Tây Ban Nha như tiếng mẹ đẻ vậy. Ông giải thích: Chúng tôi học tiếng Anh từ thuở nhỏ nên nói rành rẽ tiếng Anh là đúng
rồi. Nước Phi bị Spain đô hộ trong nhiều năm, nên ngoài tiếng Tagalog,
tiếng Spanish được coi như là tiếng nói căn bản của chúng tôi. Họ và
tên của chúng tôi cũng mang nhiều ảnh hưởng của Spain, ít có người nào
mang tên họ thuần gốc Phi lắm. Còn tại sao có nhiều người Phi chọn
ngành y tá hả? Hình như ở bên Phi cứ năm bẩy nhà là gặp một nhà có
người học làm y tá. Chúng tôi chọn ngành này vì muốn giúp đỡ gia đình,
vì đi theo tiếng gọi của trái tim, “giving, caring”, chứ không phải tại
lương cao, vì lương y tá ở Phi không có bao nhiêu. Những năm sau này,
vì thấy nghề y tá dễ dàng xin di dân đi nước ngoài kiếm sống, làm được
nhiều tiền, và nhất là được nhập cảnh Mỹ nhanh chóng, nên nhiều người
học ngành này hơn. À, bà có bao giờ đi du lịch tới Philippines chưa? Tôi nói: -
Tôi có đi sang Phi chơi một tuần. Trước khi tôi dọn về vùng này, tôi ở
thành phố Chino Hills. Tôi có bà hàng xóm rất tốt, tên Mia, cũng là
người Philippines. Bà có mấy đứa con trạc tuổi hai đứa con tôi nên đi
đâu bà cũng dẫn mấy đứa con tôi theo cho chúng chơi với nhau. Nhưng bà
đã dọn về Manila hơn 15 năm rồi, vì gia đình bà có hãng xưởng, nhà cửa
bên ấy. Mấy năm trước tôi có sang Makati thăm bà, được dẫn đi thăm thú
những danh lam thắng cảnh ở Manila, và đến nghỉ mát ở căn nhà nằm trong
vùng biển riêng biệt phía Nam thành phố. Bà hẹn tôi có dịp nào đi Phi
nữa thì hai gia đình sẽ gặp nhau để cùng rong chơi ở bờ biển Boracay cát
trắng. Ông ở đường Oak Cliff hả? Vậy thì tôi cũng ở gần nơi ông đang
cư ngụ. Tôi ở cuối con đường Hidden Valley này thôi, tiếp nối với con
đường Oak Cliff đó. Ông cứ đi hết vòng cung Oak Cliff rồi rẽ sang bên
trái là gặp nhà tôi, căn nhà có trồng nhiều hoa hồng nhất con đường. Hai chúng tôi nói chuyện đến đây thì ông Kim tới. Tomas xách giỏ lên nói: - Hôm nào có thì giờ rảnh tôi sẽ đến nhà bà nói chuyện nhiều hơn. Chúc bà một ngày làm việc vui vẻ.
Hôm nay là ngày tôi phải đem những món ăn chơi vào sở. Tôi đã dậy sớm
để chiên chả giò nhân thịt và hoành thánh nhân tôm. Còn fortune cookies
thì tôi đã mua sẵn ở tiệm bánh Đài Loan từ hôm qua. Tôi bỏ riêng hai
phần thức ăn và bánh dành cho ông Tomas và ông Kim vào hai cái túi giấy
gói thức ăn trưa có in hình ông già Noel vác một túi quà nặng trĩu. Khi
tôi ra đến góc đường quen thuộc thì thấy ông Tomas đã đứng đó. Tôi
ngừng xe bên này đường, chạy sang đưa cho ông Tomas hai gói giấy, nói
ông đưa hộ cho ông Kim một gói và chúc Merry Christmas cả hai người.
Ông Tomas đưa cho tôi một tấm thiệp Giáng Sinh bảo: - Chắc hôm nay là ngày chót tôi gặp bà. Trưa mai tôi đi Michigan rồi. Tôi kêu lên: - Ông đi sang đó làm gì mùa này? Chẳng phải ông đã bảo là ông không chịu nổi thời tiết giá lạnh của vùng bên ấy hay sao? Tomas gật đầu: -
Đúng là vậy, nhưng tôi chỉ còn có một mùa Đông trên đất Mỹ này thôi.
Tôi sẽ sang Michigan thăm con cháu và ở chơi với chúng nó vài tháng, rồi
tôi sẽ về lại Cavite, sống những ngày tháng cuối cùng ở tại quê nhà.
Bà còn nhớ tôi nói là tôi đem một phần tiền về cất lại căn nhà mới trên
mảnh đất xưa không? Căn nhà đó từ lâu tôi vẫn nhờ người bà con họ xa
coi sóc, nhưng bà ta sắp sang Mỹ với gia đình. Tôi phải về thôi. Tôi
có một miếng vườn nhỏ, đủ để trồng vài luống rau, nuôi chục con gà, con
vịt cho vui. Tôi sống đơn giản lắm, nên tiền hưu ở Mỹ gửi về cũng dư
giả, nhất là, tôi không còn phải lo trả tiền thuê nhà nữa. Tôi sẽ dùng
một phần số tiền “thặng dư” này giúp cho đồng bào tôi ở trên miền Bắc
Luzon, vùng đất mà bão tố tàn phá mỗi năm, cho những người dân cơ cực có
thêm manh quần, tấm áo, chén cơm. Tội nghiệp họ, năm nào cũng thế,
chưa kịp thu dọn lại hoang tàn đổ nát đã phải lo đương đầu với tai ương
sầm sập đến.
Biết khổ mà không làm sao thoát ra khỏi cảnh khổ, vì muốn
dời cư sang vùng đất khác đâu phải chuyện dễ dàng! Ngày nay, tôi được
như thế này cũng nhờ ơn trên ưu đãi, san sẻ được cho họ một chút nào là
tôi vui chút đó. Trong tấm thiệp này có ghi địa chỉ của tôi ở Cavite,
khi nào có dịp sang Makati thăm Mia thì mời bà ghé đến thăm quê tôi. Tôi
đem tấm thiệp vào sở, mở ra xem. Tomas viết vỏn vẹn có mấy chữ chúc
gia đình tôi những ngày lễ đầm ấm, hạnh phúc. Phần cuối của tấm thiệp
là địa chỉ và điện thoại nhà ông ở thành phố Cavite. Ngày hôm sau
đi làm, theo thói quen, tới chỗ Tomas đứng chờ ông Kim lúc trước tôi vẫn
nhìn sang, mặc dù tôi biết ông không còn có mặt ở đó. Tự dưng tôi thấy
mắt hơi cay, tôi cảm thấy hụt hẫng như mất mát một cái gì. Tôi bỗng
nhớ thiết tha tiếng chào “Good Morning” của người bạn buổi sáng. Không
biết có bao giờ tôi được gặp lại ông? Tomas ơi, tôi chúc ông có được
một mùa lễ an bình với nhiều niềm vui, đầy đủ tình yêu thương đầm ấm, và
tôi cũng cầu mong ông sẽ có những ngày cuối đời thanh thản ở tại quê
hương. Bảo Trân @@ Merry Xmas 2012 to BT!