Năm Rồng vừa chấm dứt thì năm Rắn liền
tới với chúng ta. Cảnh tượng quen thuộc ngày xưa vẫn
còn lai vãng tâm trí mọi người:
Rồng chầu ngoài Huế
Ngựa tế Đồng Nai,
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài
Thương người xa xứ lạc loài tới đây,
Tới đây thì ở lại đây
Bao giờ bén rễ xanh cây sẽ về!
Rồng xanh, rồng vàng tạm lánh mình trong thời
gian 12 năm, nhường chỗ cho rắn với năm Tân Tị khởi
đầu ngày Nguyên Đán, mồng một tháng Giêng, tức là
ngày 24.1.2001.
Chúng ta biết rằng Âm lịch khai dung từ năm
2,637 trước Kitô, nhằm năm 61 đời Hoàng đế bên Trung
Quốc.
Như vậy Âm lịch đã xuất hiện cách đây: 2,637 năm
cộng 2001, vị chi: 4,638 năm.
Năm nay, 2001 thuộc vào "Vận
niên lục giáp" thứ 78, khởi đầu từ năm 1984 và
sẽ chấm dứt vào năm 2,043.
Biết rằng mỗi giáp trên
nguyên tắc chỉ có 10 năm mà thôi (chẳng phải là 12 năm),
thì lục giáp là 10 x 6 = 60 năm, tức là một thế kỷ của
Lịch đại Á Đông.
Chu kỳ 60 năm này, người Tây phương
gọi là Cycle sexagésimal.
Chu kỳ này luôn luôn khởi đầu
với năm Giáp Tý, cho nên quyển lịch chính thức của ta,
được gọi là Hoàng Việt Giáp Tý Niên Biểu, do cụ
Nguyễn Bá Trác, Quan Lộc Tự Khanh, Tá Lý Bộ Học (Huế)
biên soạn, và do Bộ Học ấn hành năm Khải Định thập
niên, tam nguyệt nhựt (1925).
Nếu đại chu kỳ là 60 năm, thì tiểu chu kỳ
là 12 năm, khởi đầu với năm Tý, mà biểu tượng là
Chuột.
Chu kỳ này, Tây Phương gọi là Cycle duodénaire.
Trong một đại chu kỳ 60 năm, có năm tiểu chu kỳ 12 năm
(12 x 5 = 60), biết rằng 60 là tối thiểu bội số chung của
10 và 12 (10 là phần Giáp (Thập can), còn 12 là phần Tý
(Thập nhị chi).
Những Điều Nên Biết Về Loài Rắn
Nói tới loài Rắn, chúng ta phải chia ra
hai loại: rắn hiền và rắn dữ. Cả hai đều thuộc ngành
Bò sát (Raptiles), họ Ophidiens.
Rắn hiền như rắn nước,
rắn học trò... bơi lội thong thả nơi hồ ao, kiếm ăn tôm
cá, ếch nhái. Loại rắn này dễ lầm lẫn với giống lươn
(anguille), mà chúng ta tìm thấy trong câu đối lạ lùng, lửng
lơ và lắt léo sau đây:
Le lội lung lăng lay lá lách
Lươn lo lòn lỏi lọt lùm lau.
Trong loài rắn dữ, tức là rắn độc, chúng
ta không khỏi rùng mình khi nhắc tới: rắn hổ mà Tây phương
gọi là Cobra, Naja tripudians, rắn hổ mang mà họ gọi là
Bongare, Bungarus fasciatus, rắn lục mà họ gọi là Serpent
vert, Serpent bananier, Trimeresurus, rắn đẻn mà họ gọi là
Vipere lachesis...
Nhưng mà con rắn dễ sợ và nguy hiểm nhất,
dài tới 4 thước, là con Ophiophagus elaps, hay là Naja
hamadryas, sinh sản khá nhiều bên Ấn Độ.
Rắn này có khả
năng rượt theo người để cắn chết. Nhà văn Maurice
Maindron có nói tới giống rắn này trong quyển tiểu thuyết
La Gardienne de I' Idole Noire.
Tuy thế, cũng con rắn đó đã tự
ý quấn thân nhiều vòng, để làm thành một cái bệ
cao, chịu cho Đức Phật an tọa lên trên, mà tham thiền nhập
định, tránh cho Ngài khỏi bị bệnh tê thấp và đồng thời
tỏ ra sự quy thuận hoàn toàn đối với thần lực vô lường
của Ngài.
Rắn Trong Lịch Sử Việt Nam
Trong lịch sử ta có biết bao nhiêu là truyện
rắn. Chúng ta chỉ nhắc lại một truyện điển hình nhất là
Thị Lộ mà người đương thời cho là hiện thân của loài
rắn độc, có thể toát lược như sau:
Năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông (con
vua Lê Lợi) đi tuần du phương đông, duyệt võ ở Chí
Linh. Nguyễn Trãi lúc bấy giờ đã về trí sĩ tại Côn Sơn,
bèn ra nghênh tiếp xa giá nhà vua.
Lê Thái Tông bèn đến
viếng chùa Côn Sơn là nơi có ẩn am của Nguyễn Trãi.
Nhìn
thấy tì thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ nhan sắc
lộng lẫy, lại có biệt tài về văn chương, vua Lê Thái
Tông bèn phong cho chức Lễ Nghi Học Sĩ, ngày đêm hầu bên
cạnh nhà vua.
Đến khi Đông tuần, xa giá về tới Trại
Vải (Lệ Chi Viên), thuộc xã Đại Lại, huyện Gia Định,
nay là Gia Bình, thình lình nhà vua nhuốm bệnh, lên cơn sốt
dữ dội.
Thị Lộ phải hầu hạ, thang thuốc suốt đêm, rồi
nhà vua băng hà. Các quan hốt hoảng, vội vã và bí mật
phụng giá về Kinh, nửa đêm vào cung mới làm lễ phát
tang.
Tất cả triều thần đều buộc tội Thị Lộ đã âm mưu
giết vua, liền đem nàng ra giết chết.
Có sách nói rằng Thị Lộ đã bỏ thuốc
độc vào chén cho vua uống. Có sách nói vua bị cắn lưỡi
mà chết. Riêng phần Nguyễn Trãi, ông chỉ nói rằng:
"Nếu có tội thì cứ chiếu pháp luật mà nghiêm trị".
Thảm trạng này xảy ra đúng lúc trong triều
có nhiều võ quan theo phe Lê Sát, sinh lòng đố kỵ vì thấy
ngày trước Nguyễn Trãi được Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi)
trọng dụng, đem lòng oán ghét, nhân cơ hội này, liền
nghi Nguyễn Trãi là chủ mưu sát đế. Thế là sau đó,
quan Thừa Chỉ Nhập Nội Hành Khiển Đại thần Nguyễn Trãi
đã bị giết và cả ba họ bị tru di.
Truyền thuyết cho rằng: lúc lập vườn tại
Côn Sơn, lính hầu của Nguyễn Trãi đã giết chết một ổ
rắn gồm mấy mẹ con. Sau đó rắn mẹ tái sinh, bò lên
trần nhà nhìn Nguyễn Trãi đọc sách.
Rắn nhỏ xuống một
giọt máu đào, xuyên thấm qua ba tờ giấy, nhằm ám chỉ
là ba họ. Về sau, cũng con rắn đó đã hiện thân nơi Thị
Lộ làm ả bán chiếu gom ở Tây Hồ, gặp Nguyễn Trãi,
có xướng họa như sau:
Ả ở đâu, bán chiếu gom?
Chẳng hay chiếu đã hết hay còn?
Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa? Được mấy con?
Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gom
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
Sau đó thì Thị Lộ đã trở thành tì thiếp
của Nguyễn Trãi, nhập được gia đình ông ta, để âm mưu
phục thù, trả nợ máu ngày xưa là mấy mẹ con đã bị
giết oan nơi bụi rậm.
Cái án oan này, mãi đến 22 năm sau, vua Lê
Thánh Tông mới xét lại.
Đó là vụ án lịch sử Lệ
Chi Viên. Vua thấy có nhiều điều hàm hồ, oan ức cho một
đại công thần khai quốc, liền truyền hủy bỏ bản án trước
kia, truy phục chức cho Nguyễn Trãi, tức Lê Trãi, con cháu
ông được tìm kiếm và đưa ra làm quan, lại cấp tư điền
để con cháu lo việc tế tự hàng năm (1).
Sở dĩ vua Lê Thánh Tông đã duyệt lại
bản án là vì vợ nhà vua tên Nguyễn Thị Hằng (1445-1505)
là cháu gái 4 đời của bà Châu Thị, vợ nhất của
Nguyễn Trãi, đã trốn thoát được bản án tru di tam tộc
1442, chạy vào Nam Hà ẩn náu và sinh sống.
Bà Châu Thị
đem theo được nhiều con, trong đó có Nguyễn Công Duẫn,
rồi Duẫn sinh ra Nguyễn Đức Trung, rồi Trung sinh ra Nguyễn
Văn Lãng, Lãng sinh ra Nguyễn Hoằng Dụ, Dụ sinh ra Nguyễn
Hoằng Kim, tức là Nguyễn Kim (1500-1545), Kim sinh ra Nguyễn
Hoàng (1525-1613), tức là chúa Tiên, chúa đầu tiên của
nhà Nguyễn.
Như thế, Nguyễn Kim là hậu duệ của Nguyễn
Trãi. Còn hơn thế nữa, ông tổ xa xưa của Nguyễn Trãi
lẫn Nguyễn Kim là Nguyễn Bặc, khai quốc công thần đời
nhà Đinh và nhà Lý, từ thế kỷ XI. Ngoài ra gia phả của
Nguyễn Du, tác giả Kim Vân Kiều, cũng ghi dòng họ lên tới
Nguyễn Bặc.
Gần đây hơn trong lịch sử cận đại, tiểu sử
của đại thần Nguyễn Hữu Độ, Kinh lược Bắc Kỳ, cũng
có ghi là hậu duệ của Nguyễn Trãi. Chúng tôi căn cứ
trên hai tài liệu sau đây:
-
Quyển Chrestomathie Annamite (Quảng Tập Viêm Văn) của
Edmond Nordemann (Ngô Đề Mân), ấn hành ở Hà Nội năm
1898, trang 26-27.
-
Bài Les Familles Illustres de l' Annam: S.E.Nguyễn Hữu Độ
của L.Sogny, đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Hue, năm
1924, trang 169-204.
Còn như sự kiện Nguyễn Du thuộc dòng họ
Nguyễn Trãi thì các nhà văn học sử Dương Bá Cung, Lê
Thước, Bùi Văn Nguyên, căn cứ trên nhiều bổn gia phả
họ Nguyễn ở miền Bắc và miền Trung, đã xác nhận nhiều
sự trùng hợp, mà nhà báo Cô Thần đã đúc kết và
nêu lên trong báo Tự Do số 1056, ấn hành ở Sài Gòn
ngày 22.11.1960, trang đầu: Công việc tra cứu của cụ Lê
Thước cho biết Nguyễn Trãi và Nguyễn Du cùng một dòng
họ và chung một ông tổ.
Ông tổ này là Nguyễn Bặc, mà
vua Bảo Đại cũng có nhận là ông tổ của mình, trong
quyển sách "Le Dragon d' Annam", Editions Plon, Paris 1980,
trang 36-37.
Rắn Trong Văn Học Sử Việt Nam
Trong văn học sử của ta, mà cũng có liên
hệ sử Tàu, chúng ta còn nhớ giai thoại bà Đoàn Thị
Điểm (sinh năm Ất Dậu 1705, mà người ta cho là tác giả
Chinh Phụ Ngâm, mà cũng có người cho là của Phan Huy Ích)
đã đối đáp tài tình với ông anh là Đoàn Doãn Luân.
Một hôm ông này muốn thử tài cô em gái, bèn lấy một
câu chữ trong Sử Ký của Tư Mã Thiên nói về Lưu Bang
(Hán Cao Tổ) làm đề tài để cho bà đối đáp. Câu ấy
như sau:
Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm
chi
Nghĩa là con rắn trắng đón đường, ông
Quý (Lưu Bang) liền rút gươm ra chém (con rắn bị đứt làm
hai khúc, chết liền).
Bà Đoàn Thị Điểm nhanh trí, cũng dùng một
câu trong Sử Ký đời vua Nghiêu Thuấn, nói về ông Vũ
(tức là vua Hạ Vũ, sau này nối ngôi vua Thuấn), để đối
lại như sau:
Hoàng Long phụ châu, Vũ ngưỡng thiên nhi
thán viết
Nghĩa là: Con Rồng vàng đội chiếc thuyền,
ông Vũ nhìn trời mà than!
Cũng trong Văn học sử của ta, Lê Quý Đôn
(1726-1784) đã sáng tác một bài thơ thất ngôn bát cú
trong một trường hợp khá ly kỳ như sau:
Thuở nhỏ, cậu
bé Lê Danh Phương (tên đầu tiên của Lê Quý Đôn) rất
cứng đầu (rắn đầu) và biếng học.
Cha Phương quở trách,
ông phải làm một bài thơ "Rắn Đầu" để tạ tội,
với điều kiện mỗi câu trong bài bát cú phải có một
tên rắn. Phương vâng lời và đọc ngay như một thần đồng:
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà
Rắn đầu biếng học, chẳng ai tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối,
Lằn lưng cam chịu vết roi tra.
Từ nay Trâu Lỗ chăm nghề học.
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
Đặc điểm của bài thơ này là: nếu ta bỏ
hai chữ ở đầu mỗi câu, ta sẽ được một bài Ngũ
ngôn bát cú:
Liu điu vẫn giống nhà
Biếng học, chẳng ai tha
Hổ lửa đau lòng mẹ,
Mai gầm rát cổ cha.
Chỉ quen tuồng nói dối,
Cam chịu vết roi tra.
Trâu Lỗ chăm nghề học.
Mang danh tiếng thế gia.
Xin lưu ý:
Nước Lỗ là quê quán Đức
Khổng Tử mà thiên hạ gọi là Vạn Thế Sư Biểu, hay là
Sinh Dân Vị Hữu, nghĩa là từ khi có loài người thì chưa
có ai (bằng ông ta)! Còn nước Trâu là quê hương của
Thầy Mạnh Tử. Tôi còn nhớ một câu xướng độc đáo:
Nước lỗ trâu chảy ra Khổng Mạnh
Nghĩa là: Dòng nước nhỏ từ lỗ chân
trâu ra thì không có (khổng) mạnh mẽ.
Câu này khó quá chưa ai đối được cả!
Đã nhắc tới Bảng Nhỡn Lê Quý Đôn
(tục danh Lê Danh Phương), tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế
Đường, sinh ra trong niên hiệu Bảo Thái thứ 7 (1726),
đời vua Lê Dụ Tông, thời chúa Trịnh Cương ở xã Diên
Hà, tỉnh Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình), con của ông Lê
Phú Thứ và bà họ Trương.
Thân sinh đã từng đỗ Tiến
sĩ năm 1724 và làm quan đến chức Hình Bộ Thượng Thư.
Thuở bé Lê Danh Phương đã nổi tiếng thần đồng về trí
thông minh và óc nhớ dai: Hai tuổi đã biết đọc chữ
"Hữu" là có, và "Vô" là không.
Năm
tuổi đã đọc nhiều thiên trong Kinh Thi. Mười một tuổi
đã học Sử (Sử Ký của Tư Mã Thiên, Bắc Sử, Nam Sử
v.v...), học thuộc lòng tám chín chục trang, đồng thời học
luôn cả Kinh Dịch.
Mười bốn tuổi học hết Ngũ Kinh, Tứ
Thư, sử truyện và sách vở của Bách Gia Chư Tử, mỗi
ngày có thể cảm tác mười bài phú mà không cần viết
nháp.
Ngọc Rắn Trong Nhân Gian
Người ta thường nói về Nọc Rắn của
loài rắn độc, ít ai nói tới Ngọc Rắn.
Đây là một
câu chuyện có thực ở nước ta. Chúng ta hãy trở về
Đèo Hải Vân thời tiền chiến, để nghe một người ở
địa phương kể như sau:
Thời đó người ta đang xây con đường
xe lửa Xuyên Đông Dương, gọi là Transindochinois. Thật ra
là Xuyên Việt, vì nước mình rộng lớn và quan trọng,
tiêu biểu cho cả hai nước Lào Miên.
Chặng đường thứ
nhất: từ Hà Nội tới Vinh, chặng đường thứ hai: từ
Vinh tới Huế, chặng thứ ba từ Huế vào Đà Nẵng.
Chặng
này công phu và khó khăn nhất, vì núi non hiểm trở. Đà
Nẵng ngày xưa mang tên Thạc Gián, tên làng xã chính của
thị xã.
Thạc Gián viết nhầm và đọc nhầm là Tu Gián,
vì hai chữ Thạc và Tu viết gần như giống nhau.
Từ đó,
qua sự vụng về và biên chép của các người biên chép
và thông ngôn thời Pháp xâm chiếm nước Nam, mà địa
danh viết nhầm là Tu Gián đã trở thành Tourane.
Còn địa
danh Đà Nẵng thì bắt nguồn từ chữ Đà, một thổ âm
có nghĩa là Sông, suối.
Ví dụ: Đà Rằng ở Phú Yên,
Đà Lạt ở cao nguyên. Suối của bộ lạc Lạt Tiếng Chiêm
Thành là Ea (Da), cũng có nghĩa là sông là nước.
Ví dụ
như Ea Trang (Nha Trang) là con sông tre, con sông trên bờ có
mọc nhiều tre (Krưm), chữ Krưm đọc trại thành Trang.
Trở lại vùng Đà Nẵng, ta lấy quốc lộ
1, trèo đèo Hải Vân quan, đi xuống làng An Cư (Lăng Cô),
đi ngang qua Truồi, lần tới Phú Bài, Thần Phù, Dạ Lê,
Thanh Thủy, An Cựu, rồi tới Huế, đường dài 110 cây số,
đúng 1 độ (degré) của Bắc Vĩ tuyến.
Đường này quanh
co, lúc làm đường xe lửa, phải đục tới ba bốn cái
hầm trong núi cao, trong đó có hai cái hầm dài và hiểm
trở nhất là Hầm Sen và Hầm Chuối.
Dân địa phương có câu ví ngôn:
Túi thui như chui vào Hầm Sen
Và hai câu hò để than thân trách phận:
Chiều chiều gió thổi Hải Vân
Chim kêu ghềnh đá, gẫm thân em buồn!
Hay:
Chiều hôm dắt mẹ qua đèo,
Chim kêu bên nớ, vượn trèo bên ni!
Thời tiền chiến, có một người cai phu lục
lộ, trong lúc đi tuần dọc đường rầy, lúc sắp chui vào
Hầm Sen thì chợt thấy lóa mắt bởi nhiều tia ánh sáng.
Dụi mắt để nhìn lại lần nữa thì thấy ánh sáng này
nhúc nhích và chuyển động.
Cai phu liền bật đèn pin rọi
thì nhìn thấy luồng ánh sáng đó tỏa ra từ miệng con rắn
dài ba thước, đương bò ngang qua đường rầy.
Cai phu nhìn
kỹ thì thấy con rắn ngậm một hòn ngọc sáng chói. Thấy
người và ánh đèn, con rắn liền bò nhanh chui vào Hầm
Sen biến mất.
Tình cờ một tiều phu già đi ngang qua đây,
cai phu kể chuyện lại thì được tiều phu chỉ về cách thức
lấy được ngọc rắn.
Tiều phu bảo phải bắt một con gà,
cột nó vào cái rổ lật ngửa, rồi đặt cái rổ đó
lên trên một thau nước và cột chặt gà, rổ và thau nước
lại với nhau, làm thế nào thau không bị lật đổ. Xong rồi,
cứ việc ngồi rình đừng để cho rắn thần trông thấy.
Loài Bò Sát Trong Thần Thoại Việt
Nam
Ngoài những con rắn ta thường trông thấy
trên đất liền, thường có giống Thuồng Luồng dài năm
bảy chục thước, chuyên sống nơi biển lớn, hồ rộng.
Hồi đầu thế kỷ, có nhiều thủy thủ đã trông thấy
thuồng luồng nơi Vịnh Hạ Long, nơi quần đảo Bạch Long Vĩ.
Họ chỉ trông thấy cái đuôi (vĩ) mà cũng đã dài lắm
rồi. Lại có người trong thấy con thuồng luồng xuất hiện
vài phen nơi hồ Lock Ness, bên xứ Scotland.
Con quái vật này
(le monstre de Lock Ness) trải qua nhiều thế kỷ, đã làm cho
người ta mất khá nhiều thời giờ để rình ngó, nó cũng
làm cho văn nhân, sử gia tốn công viết lách tìm tòi.
Riêng về dân tộc chúng ta vốn thuộc loài
Giao Chỉ. Danh từ kép nầy có nhiều nghĩa:
Ngón chân cái
tách ra, lúc đứng xếp chân gần nhau thì thấy hai ngón
chân cái giao đầu với nhau.
Lại thêm một nghĩa nữa là:
Bờ nuớc có thuồng luồng, cá sấu, loại sauriens như
dinosaur, plésiosaures, diplocdocus v.v... thời tiền sử sinh sống.
Đó là hai ý nghĩa chính, còn nhiều cách giải thích khác
nữa không thể nói hết được.
Ngày xưa, giao long và thuồng luồng tranh nhau
mà sống khắp sông hồ và duyên hải Nam Hoa và Bắc Việt.
Do đó mà Hàn Dũ đời Đường (768-823) và Hàn Thuyên
đời Trần Thái Tông (1225-1257) đã được lệnh nhà vua
làm bài văn tế cá sấu, để đập đuổi cá sấu đang
nhiễu hại dân chài lưới, đi ra khỏi sông Phú Lương, tức
là sông Hồng Hà ngày nay.
Theo nhà văn Roger Caillois, con
rồng phát xuất từ con Giao Long mà ông dịch là Alligator,
một giống bò sát (reptile) có nhiều liên hệ với nước
mây mưa gió.
Ắt hẳn con Giao Long là vật tổ của người
Giao Chỉ, một sắc dân sống miền duyên hải, chuyên sống
về nghề chài lưới và có tục lệ xâm mình, vẽ hình
rồng rắn, khiến cho giống thuồng luồng, cá sấu phải nể
nang khiếp sợ mà tránh né, hoặc được xem như là đồng
loại để đừng giết hại lẫn nhau.
Tục lệ xâm mình này đã có từ ngàn xưa
vì sách Sử Ký của Tư Mã Thiên đời Hán đã từng
ghi "Tiễn phát, văn thân, thác ti, tả nhậm":
Cắt
tóc ngắn, vẽ mình, vòng tay (cung kính), cài nút áo phía
trái. Ấy là bốn đặc tính của dân Việt Giao Chỉ.
Tục
lệ đã chấm dứt đời vua Trần Anh Tông (1293-1314) anh ruột
Công chúa Huyền Trân, và cũng là người đầu tiên đã
dám cãi lệnh vua cha, nhất định không chịu xâm mình. Đó
là một ông vua có óc tiến bộ, đã dám quên gốc chài
lưới của tổ tiên, để mạnh dạn tiến vào thời kỳ
nông nghiệp phồn thịnh của dân ta.
Hơn nữa, việc cống
hiến ngọc trai, san hô (coral) cho vua Tàu không còn ràng
buộc chặt chẽ như xưa, và từ đó dân chài của ta không
còn phải lặn lội dưới biển sâu để mò trai kiếm ngọc.
Xem như trên, các loài rồng rắn, thuồng
luồng, cá sấu có nhiều điểm tương đồng, mà cũng có
nhiều điểm dị biệt: Rồng có bốn chân, không có cánh
mà vẫn bay được lên tận mây xanh, Thuồng luồng không
chân và dài như con chình khổng lồ, có thể lật thuyền
như chơi; Cá sấu da dầy, răng như cưa, mắt trợn... trông
thấy mà kinh; Rắn không chân, bò sát đất, nhưng khéo
tu thì có ngọc!
Hầu hết rồng rắn dị hình, dị tướng, đều
mang nặng tính chất kỳ bí và thần thoại, do óc quan sát
tinh vi và trí tưởng phong phú của loài người.
Hương Giang Thái Văn Kiểm