Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012
Nhịp nối cuộc đời
Hồi còn nhỏ, tôi thường say mê nghe các chị lớn trong họ tả về mẹ tôi thời còn con gái.“Cô
đẹp lắm, cả dáng đi cũng đẹp. Chiều chiều tụi chị hay ra trước cửa để
chờ cô đi dạy về. Cô mặc áo dài, đi nhẹ nhàng từ đầu ngõ vào… Cả ngõ ai
cũng nhìn …”Dĩ nhiên trong mắt tôi thì mẹ tôi lúc nào cũng đẹp,
ngay cả khi Mẹ đã có sáu đứa con. Nhưng tôi vẫn mê nhất là những câu
chuyện về Mẹ thời mới di cư vào Nam, ở chung với đại gia đình ở Xóm
Lách. Hình ảnh mẹ tôi đeo găng tay lái xe Solex, vạt áo dài gài ở yên
sau bay phồng lên như một cụm mây hay hình ảnh mẹ đi khoan thai uyển
chuyển trong con ngõ nhỏ đã thành những “huyền thoại” trong lòng tôi.Chị
em tôi có nét pha trộn giữa Bố và Mẹ…
Các cô, các bác hay ngắm nghía chúng tôi rồi nói nét này cuả Bố, nét kia của Mẹ. Có điều… đôi khi người lớn không đồng ý với nhau nên thời nhỏ có vài nét tôi cũng chẳng biết tôi đã nhận từ ai. Nhưng, có một điều tôi luôn biết chắc – đó là tôi thừa hưởng từ Bố tôi lòng yêu thơ.Bố tôi yêu thơ lắm. Ông nhớ rất nhiều bài, nhất là của các thi sĩ nổi tiếng trước thời chia cắt đất nước 1954.
Ông sưu tầm nhiều sách thơ, ông hay ngâm thơ ru chúng tôi ngủ. Ngoài những bài ca dao như “Con cò mà đi ăn đêm, Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao …”, Bố còn ngâm các bài rất dài như Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị do Phan Huy Vịnh dịch...
Kỷ niệm dễ thương nhất là em út tôi, mới có hơn một tuổi, nằm trên xích đu vưà mút tay vưà lim dim nghe thơ rồi ngọng nghịu nói vuốt theo “áo xăng“ khi bố đọc tới “Lệ ai chan chứa hơn người, Giang Châu Tư Mã ngậm ngùi áo xanh…”Để dạy chúng tôi tập đọc, tập viết, Bố không mua sách in sẵn mà ông viết những bài thơ vào vở cho chúng tôi tô lên.
Tô xong rồi đọc, học thuộc, và trả bài.Mẹ tôi không đồng ý lắm với các lớp vỡ lòng lạ lùng này, nhưng bà cũng quá bận rộn nên không phản đối nhiều.
Mẹ còn mỉm cười trong những khoảnh khắc ngộ nghĩnh như khi con bé bốn tuổi – tôi - trả làu làu bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu bằng tiếng Hán. Dĩ nhiên là Bố tôi có giảng nghĩa, nhưng nếu không tôi cũng chẳng thấy phiền khi không hiểu rõ mhữnng câu “Trình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu”. Tôi thấy âm điệu nó hào sảng, nhịp nhàng; vậy là đủ cho tôi thích thú.Tuy vậy, cũng có lần Mẹ tôi cằn nhằn.
Đó là lần Bố dạy tôi bài Mưa Cẩm Giang của Trường Anh với những câu
“Thăm thẳm đường trường tôi người cô độc
Mòn gót giầy trong quán trọ đêm nay
Mưa Cẩm Giang như niềm đau ai khóc
Đường xụt xùi qua mấy nẻo truông lầy…”Mẹ nói “Sao Bố chọn bài thơ gì nghe thảm vậy? Thơ buồn quá, ảnh hưởng tâm hồn trẻ con, không tốt đâu!”
Bố tôi chắc không tin điều đó và tôi cũng… theo bố. Bởi vì thơ buồn chỉ là một phần nhỏ những gì Bố dạy, ngoài ra chúng tôi còn học được rất nhiều thứ.
Qua những bài thơ, chị em tôi - sinh ra ở miền Nam và lớn lên nhờ nước máy Sài Gòn bỗng hiểu những danh từ xưa của miền Bắc, bỗng như quen với những địa danh xa tít, thấp thoáng trong thời thanh niên bôn ba cuả Bố, chẳng hạn như “đất tề”, “sông Đáy”.
“Rét mướt muà sau chừng sắp ngự
Kinh thành em có nhớ thương ta?
Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến
Hiu hắt chiều Xuân lạnh đất tề
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ” (1)
Bố còn dạy tôi học Sử bằng thơ. Thời đó, tới lớp Năm thì chương trình Việt Sử mới dạy tới “Vua Quang Trung Đại Phá Quân Thanh”. Tôi thấy học sử thật là dễ, vì những trang sử oai hùng đó tôi đã thuộc làu từ thời còn … nói ngọng
Đang lúc đoàn binh tướng Mãn Thanh
Vui cùng rượu ngọt, gái xuân xanh
Thì muôn pháo lệnh tưng bừng nổ
Và tiếng quân reo dậy khắp thành
Quân ải Phú Xuyên vội lạy hàng
Hà Hồi tiếp vỡ, Ngọc Hồi tan
Và quân tướng Việt cùng hăm hở
Tràn đến Thăng Long tựa thác ngàn
Sĩ Nghị đang đêm trốn khỏi thành
Sông Hồng cuốn xác vạn binh Thanh
Chiến bào đẫm máu, Ngô Văn Sở
Truyền lệnh bêu đầu Hứa Thế Hanh!
Dưới nắng hồng quân sĩ ngất ngây
Tung hô chủ tướng tiếng vang dày
Quang Trung vui vẻ nhìn trong gió
Cờ Việt huy hoàng, phất phới bay.
Sau khi chúng tôi đi học, Bố ít còn dịp dạy thơ. Khi rảnh rỗi, chị em tôi tự lục sách đọc và thưởng thức. Tôi thích nhất quyển Thi Nhân Việt Nam với bià sách màu xanh nhạt, với lời bình của hai nhà sưu tầm Hoài Thanh- Hoài Chân cho mỗi bài thơ.
Tôi yêu nước Việt vì văn hoá Việt, và tôi yêu văn hoá Việt qua những tác phẩm văn thơ.
Tôi chưa kịp trưởng thành thì cuộc đổi đời năm 1975 xảy ra. Cuộc đổi đời khốc liệt đã dập vùi bao cuộc đời, xé tan bao hy vọng, cuốn phăng bao ân tình, và làm băng hoại bao nhiêu giá trị xã hội, nhưng vẫn không xoá được tấm tình của tôi cho Việt Nam. Tấm tình bắt đầu từ những bài thơ thưở vỡ lòng.Cuộc đổi đời cũng làm những ước mơ của Bố cho chúng tôi đi vào những ngả rẽ bất ngờ. Biết tôi thích văn học, Bố đã từng mơ cho tôi sau này được đi du học để được mở tầm nhìn ra văn chương thế giới.
Sau năm 1975, giấc mộng thành xa vời, nhưng tôi lại làm quen với thơ tiếng Anh một cách không ngờ.
Ngày đó, bạn bè tôi hay chia sẻ với nhau những lá thư từ những người đã vượt biên. Những lá thư thơm phức trên giấy trắng tinh như mở ra một kẽ nhỏ xíu cho chúng tôi nhớ rằng ngoài kia có một thế giới không bị thống trị bằng tàn nhẫn, nghi ngờ và đói khổ. Bài thơ tiếng Anh đầu tiên tôi đọc là trong một tấm thiệp gởi về cho cô bạn cùng lớp
“Roses are red
Violets are blue
Sugar is sweet
And so are you!
Roses are red
Violets are blue
I am so happy
That I love you!”
Bài thơ mộc mạc mà thật dễ thương.
Tôi thích lắm và đó là lần đầu tiên tôi dịch thơ tiếng Anh ra tiếng Việt
“Hồng đỏ thắm
Bích hoa xanh
Đường dịu ngọt
Giống như anh!
Hồng đỏ thắm
Bích hoa xanh
Lòng rộn rã
Vì thương anh!”
Sau đó, tôi cũng vượt biển sang Mỹ. Tôi đã được đọc nhiều bài thơ tiếng Anh và tôi thấy rõ rằng thưởng thức thơ cần một cái gì sâu xa hơn là chỉ hiểu ngôn từ.
Có những bài thơ rất nổi tiếng nhưng tôi đọc qua và không rung động.
Khi thì tôi không đồng cảm với ý thơ, lần thì không thấu hiểu được cái hay của cách dùng chữ, đặt câu quá cao siêu, có lúc lại vì âm điệu không nhịp nhàng giống như những thanh âm mà tâm hồn tôi yêu thích.
Tuy vậy cũng có khi tôi gặp được những bài thơ tiếng Anh gần gũi như bài Chain of Pearls của Tagore, nhà thơ Ấn độ từng đoạt giải Nobel văn chương 1913.
Chain Of Pearls
By: Rabindranath Tagore
Mother, I shall weave a chain of pearls for thy neck with my tears of sorrow.The stars have wrought their anklets of light to deck thy feet, but mine will hang upon thy breast.Wealth and fame come from thee and it is for thee to give or to withhold them.
But this my sorrow is absolutely mine own, and when I bring it to thee as my offeringthou rewardest me with thy grace.
Chuỗi Ngọc
Người dịch: Khôi An
Thưa mẹ, con xin dâng chuỗi ngọc
Kết bằng bao nước mắt ăn năn
Thiên thu sao sáng vòng chân mẹ
Bầu sữa con xin bé dại nằm
Tiền của, hào quang có ở đời
Đều từ tay mẹ rộng ban thôi
Món quà duy nhất đem về mẹ
Mảnh hồn con cô đơn tả tơi
…Thương con lòng mẹ vẫn mời
Lời ru vẫn ngọt như thời ấu thơ
Thơ cho tôi nhiều kỷ niệm. Thích nhất là những khi thơ nối liền biên giới ngôn ngữ.
Có lần một người bạn trong nhóm Việt Bút (nhóm của một số tác giả Viết Về Nước Mỹ) gởi một bài thơ tiếng Anh của Donna Hoover, tôi đọc và bồi hồi muốn rơi nước mắt.
Tôi ước là bài thơ được dịch sang điệu lục bát để đem về ngâm nga dạy con cháu, nhưng việc làm lúc đó đang bận nên tôi đành bó tay.
Tiếc rẻ, tôi viết thư “òn ỉ” xem trong nhóm có ai cao hứng dịch dùm.Thật là vui và ngạc nhiên khi chiều hôm đó tôi nhận được bản dịch của Donna Nguyễn.
Cô Donna người Việt dịch bài thơ cuả cô Donna người Mỹ một cách “thần sầu”, vừa gần gũi tiếng Việt vừa chuyên chở được hết ý thơ và cái ngây thơ đến đau lòng của đứa bé trong tác phẩm.
Is Heaven In The Yellow Pages?
By: Donna Hoover
Mommy went to Heaven, but I need her here today,
My tummy hurts and I fell down, I need her right away.
Operator can you tell me how to find her in this book?
Is heaven in the yellow part, I don't know where to look.
I think my daddy needs her too, at night I hear him cry.
I hear him call her name sometimes, but I really don't know why.
Maybe if I call her, she will hurry home to me.
Is Heaven very far away, is it across the sea?
She's been gone a long, long time she needs to come home now!
I really need to reach her, but I simply don't know how.
Help me find the number please, is it listed under "Heaven"?
I can't read these big words, I am only seven.
I'm sorry operator, I didn't mean to make you cry,
Is your tummy hurting too, or is there something in your eye?
If I call my church maybe they will know.
Mommy said when we need help that's where we should go.
I found the number to my church tacked up on the wall.
Thank you operator, I'll give them a call.
Thiên Đàng Số Mấy
Người dịch: Donna Nguyễn
Mẹ con đã dọn về trời
Nhưng con cần mẹ bên đời hôm nay
Bụng đau, con lại té trầy
Con cần mẹ với bàn tay dịu hiền
Tổng đài: xin hãy cảm phiền
Cho con xin số mẹ hiền, được không?
Thiên Đàng số mấy hả ông?
Sao con tìm mãi mà không được nào
Cha con buồn bã làm sao
Trong đêm gọi mẹ, nghẹn ngào tiếc thương
Ước gì số mẹ tỏ tường
Con gọi, mẹ sẽ lên đường về thăm
Thiên Đàng một cõi xa xăm
Cách bao nhiêu biển? Bao năm xa rồi
Về mau hỡi mẹ yêu ơi
Con tìm số mẹ, giữa đời bơ vơ
Con đang tìm mẹ ngẩn ngơ
Con đang cần mẹ từng giờ, mẹ ơi
Thiên đàng số mấy? hỡi đời
Con mới lên bảy, chữ thời quá to
Tổng đài xin hãy cùng lo
Giúp cho con nhé, gọi cho mẹ về
Hay ông cũng thấy ê chề?
Ruột gan đau thắt, não nề, chơ vơ?
Hay con phải gọi nhà thờ
Như lời mẹ dặn, Chúa chờ giang tay?
Ô hay! số ấy đây này
Cám ơn ông nhé, con đây gọi liền
Thiên đàng, với bóng mẹ hiền
Xin mau bôi xóa ưu phiền con mang
Bài thơ trong điệu lục bát nghe thân thương như một bài hát ru, mang đầy hồn thơ Việt.Tôi rất thích hai chữ “hồn thơ”. Theo tôi, mỗi bài thơ đều có hồn và người cảm được cái hồn thì mới thích bài thơ đó.
Có lẽ vì thế mà thưởng thức thơ bằng ngoại ngữ bao giờ cũng khó hơn.
Vậy mà gần đây nhóm Việt Bút vừa đón nhận một thành viên mới, một người Mỹ làm thơ tiếng Việt.Tôi gọi ông là chú Sáu thay vì Mr. Steve Brown.
Chú Sáu đã từng đóng quân ở Việt Nam, nơi đó chú đã gặp thím Sáu.
Vài ngày sau khi gia nhập nhóm, chú Sáu ra mắt mọi người bằng một bài thơ lục bát. Thơ chú Sáu đặc biệt với cách dùng chữ là lạ của một người rất giỏi tiếng Việt nhưng không phải là người Việt, nghe vưà độc đáo vưà ngộ nghĩnh. Chẳng hạn như trong bài thơ tả cảnh của chú:
Hoa màu đỏ nở trước nhà
Nhưng nàng hay ngắm đi xa vắng rồi
Đi qua một chỗ xa xôi
Màu hoa thật đẹp trên đồi chung quanh
Em ơi, hãy đến cùng anh
Đôi ta thưởng thức gió hanh một hồi
Những điều giản dị mà thôi
Thỏa lòng cuộc sống, lôi thôi khỏi cần
Tôi đã cười vì thấm ý với hai câu kết, nhất là khi tưởng tượng chú Sáu nói “lôi thôi khỏi cần” bằng giọng Bình Định của quê thím Sáu...
Sau đó, anh TQ Sỹ chỉ cho nhóm Việt Bút làm thơ Đường. Anh tóm tắt niêm, luật bằng những câu vè ngắn, dễ nhớ làm cho mọi người thích thú. Người thích nhất có lẽ là chú Sáu.
Chú áp dụng những quy luật một cách thật chính xác và hăng hái tập luyện. Đối với chú Sáu, việc theo sát niêm luật như theo công thức toán có vẻ không khó lắm, nhưng chú khá chật vật trong việc tìm ý đối cho các câu thực (câu 3,4) và câu luận (câu 5,6).
Cũng là chuyện tự nhiên thôi, ngay cả chúng tôi - những người nằm mơ bằng tiếng Việt - mà còn phải vò đầu với phần đối khi làm thơ Đường.
Tuy vậy, với lòng yêu tiếng Việt thật đậm đà và óc cầu tiến, chú Sáu đã kiên nhẫn trau giồi và tiến bộ rất nhanh.Bài thơ Đường mới nhất của chú vừa đúng niêm luật, vưà chỉnh ý mà vẫn có những câu mộc mạc, dễ thương.
Muôn màu tàn hết có ngờ đâu
Đến cuối mùa Thu cảnh nhuốm sầu
Hãy chớ nản lòng, đừng tuyệt vọng
Không cần đổ lệ, khỏi cần lau
Cứ xem lúc đó như thời vận
Hãy thấy mùa qua tựa chiếc cầu
Để chở mình qua mùa quá đẹp
Khi đôi ta dạo chơi cùng nhau
Người Mỹ mà thích làm thơ Việt và làm giỏi như chú Sáu thật là hiếm có. Đôi khi tôi có ý nghĩ dí dỏm rằng không biết chú Sáu có duyên với thím Sáu nên yêu thơ Việt, hay vì chú có duyên “tiền định” với thơ Việt nên ông Tơ Hồng cho chú gặp vợ Việt Nam…
Ngày trước, khi có giờ rảnh, Bố tôi ngâm một vài bài thơ và ghi âm vào băng nhưạ. Cái máy thâu âm lúc đó có hai băng nhựa to như hai cái điã, và tôi đã nhiều lần ngồi bên Bố, chăm chú nhìn những vòng băng nâu nhạt quay quay, nín thở giữ im lặng cho Bố ghi lại những bài thơ ông thích nhất.
Ngày đi Mỹ, Bố Mẹ tôi không đem theo cái máy cũ kỹ, nặng nề đó.Bố tôi bây giờ đã lẫn rồi. Ngay cả tôi ông cũng ít nhận ra, nói gì tới nhớ được thơ.
Những bài thơ đã phai ở trên băng nhựa, đã nhoà ở trong óc Bố nhưng may thay chúng vẫn còn ở trong tôi.
Những bài thơ vẫn dẫn đường cho tôi về thăm lại miền tuổi thơ, có Mẹ tôi ngồi mỉm cười nghe Bố tôi ngâm thơ ru chị em tôi ngủ.Con gái cuả tôi bây giờ cũng thích thơ và làm thơ giỏi lắm.
Thơ của cháu đăng trên các diễn đàn từ lúc mười tuổi được nhiều người khen. Ngược lại với tôi, cháu rành thơ tiếng Anh và chỉ biết chút ít thơ tiếng Việt. Nhưng, theo những gì tôi thấy chung quanh, thế hệ sinh ra ở Mỹ thường trở về gần gũi với nguồn Việt Nam khi các cháu trưởng thành.
Ngạn ngữ Mỹ có câu “Quả táo chẳng thể nào rơi xa gốc cây” (The apple never falls far from the tree), cho nên dù diễn tả bằng tiếng Việt hay tiếng Anh, thơ đã được nối từ tôi qua con gái.
Cây táo được nuôi lớn bằng những lời ru của Bố tôi, của bà nội tôi, và những đời xa hơn nữa, đang kết trái đơm hoa trên xứ Mỹ.
Tôi hy vọng cây luôn luôn mạnh mẽ, tươi tốt để một ngày mang trái ngọt về bồi lại làng quê nơi Bố đã ra đời. Tôi tin là chuyện đó sẽ xảy ra.
Sẽ xảy ra nếu tôi chăm chỉ tưới cây bằng những câu ca dao, những bài thơ, bài văn, âm nhạc, và những trang sử Việt… Và các con tôi cũng làm như thế.
Khôi An
@@ tks t.g !!
Các cô, các bác hay ngắm nghía chúng tôi rồi nói nét này cuả Bố, nét kia của Mẹ. Có điều… đôi khi người lớn không đồng ý với nhau nên thời nhỏ có vài nét tôi cũng chẳng biết tôi đã nhận từ ai. Nhưng, có một điều tôi luôn biết chắc – đó là tôi thừa hưởng từ Bố tôi lòng yêu thơ.Bố tôi yêu thơ lắm. Ông nhớ rất nhiều bài, nhất là của các thi sĩ nổi tiếng trước thời chia cắt đất nước 1954.
Ông sưu tầm nhiều sách thơ, ông hay ngâm thơ ru chúng tôi ngủ. Ngoài những bài ca dao như “Con cò mà đi ăn đêm, Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao …”, Bố còn ngâm các bài rất dài như Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị do Phan Huy Vịnh dịch...
Kỷ niệm dễ thương nhất là em út tôi, mới có hơn một tuổi, nằm trên xích đu vưà mút tay vưà lim dim nghe thơ rồi ngọng nghịu nói vuốt theo “áo xăng“ khi bố đọc tới “Lệ ai chan chứa hơn người, Giang Châu Tư Mã ngậm ngùi áo xanh…”Để dạy chúng tôi tập đọc, tập viết, Bố không mua sách in sẵn mà ông viết những bài thơ vào vở cho chúng tôi tô lên.
Tô xong rồi đọc, học thuộc, và trả bài.Mẹ tôi không đồng ý lắm với các lớp vỡ lòng lạ lùng này, nhưng bà cũng quá bận rộn nên không phản đối nhiều.
Mẹ còn mỉm cười trong những khoảnh khắc ngộ nghĩnh như khi con bé bốn tuổi – tôi - trả làu làu bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu bằng tiếng Hán. Dĩ nhiên là Bố tôi có giảng nghĩa, nhưng nếu không tôi cũng chẳng thấy phiền khi không hiểu rõ mhữnng câu “Trình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu”. Tôi thấy âm điệu nó hào sảng, nhịp nhàng; vậy là đủ cho tôi thích thú.Tuy vậy, cũng có lần Mẹ tôi cằn nhằn.
Đó là lần Bố dạy tôi bài Mưa Cẩm Giang của Trường Anh với những câu
“Thăm thẳm đường trường tôi người cô độc
Mòn gót giầy trong quán trọ đêm nay
Mưa Cẩm Giang như niềm đau ai khóc
Đường xụt xùi qua mấy nẻo truông lầy…”Mẹ nói “Sao Bố chọn bài thơ gì nghe thảm vậy? Thơ buồn quá, ảnh hưởng tâm hồn trẻ con, không tốt đâu!”
Bố tôi chắc không tin điều đó và tôi cũng… theo bố. Bởi vì thơ buồn chỉ là một phần nhỏ những gì Bố dạy, ngoài ra chúng tôi còn học được rất nhiều thứ.
Qua những bài thơ, chị em tôi - sinh ra ở miền Nam và lớn lên nhờ nước máy Sài Gòn bỗng hiểu những danh từ xưa của miền Bắc, bỗng như quen với những địa danh xa tít, thấp thoáng trong thời thanh niên bôn ba cuả Bố, chẳng hạn như “đất tề”, “sông Đáy”.
“Rét mướt muà sau chừng sắp ngự
Kinh thành em có nhớ thương ta?
Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến
Hiu hắt chiều Xuân lạnh đất tề
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ” (1)
Bố còn dạy tôi học Sử bằng thơ. Thời đó, tới lớp Năm thì chương trình Việt Sử mới dạy tới “Vua Quang Trung Đại Phá Quân Thanh”. Tôi thấy học sử thật là dễ, vì những trang sử oai hùng đó tôi đã thuộc làu từ thời còn … nói ngọng
Đang lúc đoàn binh tướng Mãn Thanh
Vui cùng rượu ngọt, gái xuân xanh
Thì muôn pháo lệnh tưng bừng nổ
Và tiếng quân reo dậy khắp thành
Quân ải Phú Xuyên vội lạy hàng
Hà Hồi tiếp vỡ, Ngọc Hồi tan
Và quân tướng Việt cùng hăm hở
Tràn đến Thăng Long tựa thác ngàn
Sĩ Nghị đang đêm trốn khỏi thành
Sông Hồng cuốn xác vạn binh Thanh
Chiến bào đẫm máu, Ngô Văn Sở
Truyền lệnh bêu đầu Hứa Thế Hanh!
Dưới nắng hồng quân sĩ ngất ngây
Tung hô chủ tướng tiếng vang dày
Quang Trung vui vẻ nhìn trong gió
Cờ Việt huy hoàng, phất phới bay.
Sau khi chúng tôi đi học, Bố ít còn dịp dạy thơ. Khi rảnh rỗi, chị em tôi tự lục sách đọc và thưởng thức. Tôi thích nhất quyển Thi Nhân Việt Nam với bià sách màu xanh nhạt, với lời bình của hai nhà sưu tầm Hoài Thanh- Hoài Chân cho mỗi bài thơ.
Tôi yêu nước Việt vì văn hoá Việt, và tôi yêu văn hoá Việt qua những tác phẩm văn thơ.
Tôi chưa kịp trưởng thành thì cuộc đổi đời năm 1975 xảy ra. Cuộc đổi đời khốc liệt đã dập vùi bao cuộc đời, xé tan bao hy vọng, cuốn phăng bao ân tình, và làm băng hoại bao nhiêu giá trị xã hội, nhưng vẫn không xoá được tấm tình của tôi cho Việt Nam. Tấm tình bắt đầu từ những bài thơ thưở vỡ lòng.Cuộc đổi đời cũng làm những ước mơ của Bố cho chúng tôi đi vào những ngả rẽ bất ngờ. Biết tôi thích văn học, Bố đã từng mơ cho tôi sau này được đi du học để được mở tầm nhìn ra văn chương thế giới.
Sau năm 1975, giấc mộng thành xa vời, nhưng tôi lại làm quen với thơ tiếng Anh một cách không ngờ.
Ngày đó, bạn bè tôi hay chia sẻ với nhau những lá thư từ những người đã vượt biên. Những lá thư thơm phức trên giấy trắng tinh như mở ra một kẽ nhỏ xíu cho chúng tôi nhớ rằng ngoài kia có một thế giới không bị thống trị bằng tàn nhẫn, nghi ngờ và đói khổ. Bài thơ tiếng Anh đầu tiên tôi đọc là trong một tấm thiệp gởi về cho cô bạn cùng lớp
“Roses are red
Violets are blue
Sugar is sweet
And so are you!
Roses are red
Violets are blue
I am so happy
That I love you!”
Bài thơ mộc mạc mà thật dễ thương.
Tôi thích lắm và đó là lần đầu tiên tôi dịch thơ tiếng Anh ra tiếng Việt
“Hồng đỏ thắm
Bích hoa xanh
Đường dịu ngọt
Giống như anh!
Hồng đỏ thắm
Bích hoa xanh
Lòng rộn rã
Vì thương anh!”
Sau đó, tôi cũng vượt biển sang Mỹ. Tôi đã được đọc nhiều bài thơ tiếng Anh và tôi thấy rõ rằng thưởng thức thơ cần một cái gì sâu xa hơn là chỉ hiểu ngôn từ.
Có những bài thơ rất nổi tiếng nhưng tôi đọc qua và không rung động.
Khi thì tôi không đồng cảm với ý thơ, lần thì không thấu hiểu được cái hay của cách dùng chữ, đặt câu quá cao siêu, có lúc lại vì âm điệu không nhịp nhàng giống như những thanh âm mà tâm hồn tôi yêu thích.
Tuy vậy cũng có khi tôi gặp được những bài thơ tiếng Anh gần gũi như bài Chain of Pearls của Tagore, nhà thơ Ấn độ từng đoạt giải Nobel văn chương 1913.
Chain Of Pearls
By: Rabindranath Tagore
Mother, I shall weave a chain of pearls for thy neck with my tears of sorrow.The stars have wrought their anklets of light to deck thy feet, but mine will hang upon thy breast.Wealth and fame come from thee and it is for thee to give or to withhold them.
But this my sorrow is absolutely mine own, and when I bring it to thee as my offeringthou rewardest me with thy grace.
Chuỗi Ngọc
Người dịch: Khôi An
Thưa mẹ, con xin dâng chuỗi ngọc
Kết bằng bao nước mắt ăn năn
Thiên thu sao sáng vòng chân mẹ
Bầu sữa con xin bé dại nằm
Tiền của, hào quang có ở đời
Đều từ tay mẹ rộng ban thôi
Món quà duy nhất đem về mẹ
Mảnh hồn con cô đơn tả tơi
…Thương con lòng mẹ vẫn mời
Lời ru vẫn ngọt như thời ấu thơ
Thơ cho tôi nhiều kỷ niệm. Thích nhất là những khi thơ nối liền biên giới ngôn ngữ.
Có lần một người bạn trong nhóm Việt Bút (nhóm của một số tác giả Viết Về Nước Mỹ) gởi một bài thơ tiếng Anh của Donna Hoover, tôi đọc và bồi hồi muốn rơi nước mắt.
Tôi ước là bài thơ được dịch sang điệu lục bát để đem về ngâm nga dạy con cháu, nhưng việc làm lúc đó đang bận nên tôi đành bó tay.
Tiếc rẻ, tôi viết thư “òn ỉ” xem trong nhóm có ai cao hứng dịch dùm.Thật là vui và ngạc nhiên khi chiều hôm đó tôi nhận được bản dịch của Donna Nguyễn.
Cô Donna người Việt dịch bài thơ cuả cô Donna người Mỹ một cách “thần sầu”, vừa gần gũi tiếng Việt vừa chuyên chở được hết ý thơ và cái ngây thơ đến đau lòng của đứa bé trong tác phẩm.
Is Heaven In The Yellow Pages?
By: Donna Hoover
Mommy went to Heaven, but I need her here today,
My tummy hurts and I fell down, I need her right away.
Operator can you tell me how to find her in this book?
Is heaven in the yellow part, I don't know where to look.
I think my daddy needs her too, at night I hear him cry.
I hear him call her name sometimes, but I really don't know why.
Maybe if I call her, she will hurry home to me.
Is Heaven very far away, is it across the sea?
She's been gone a long, long time she needs to come home now!
I really need to reach her, but I simply don't know how.
Help me find the number please, is it listed under "Heaven"?
I can't read these big words, I am only seven.
I'm sorry operator, I didn't mean to make you cry,
Is your tummy hurting too, or is there something in your eye?
If I call my church maybe they will know.
Mommy said when we need help that's where we should go.
I found the number to my church tacked up on the wall.
Thank you operator, I'll give them a call.
Thiên Đàng Số Mấy
Người dịch: Donna Nguyễn
Mẹ con đã dọn về trời
Nhưng con cần mẹ bên đời hôm nay
Bụng đau, con lại té trầy
Con cần mẹ với bàn tay dịu hiền
Tổng đài: xin hãy cảm phiền
Cho con xin số mẹ hiền, được không?
Thiên Đàng số mấy hả ông?
Sao con tìm mãi mà không được nào
Cha con buồn bã làm sao
Trong đêm gọi mẹ, nghẹn ngào tiếc thương
Ước gì số mẹ tỏ tường
Con gọi, mẹ sẽ lên đường về thăm
Thiên Đàng một cõi xa xăm
Cách bao nhiêu biển? Bao năm xa rồi
Về mau hỡi mẹ yêu ơi
Con tìm số mẹ, giữa đời bơ vơ
Con đang tìm mẹ ngẩn ngơ
Con đang cần mẹ từng giờ, mẹ ơi
Thiên đàng số mấy? hỡi đời
Con mới lên bảy, chữ thời quá to
Tổng đài xin hãy cùng lo
Giúp cho con nhé, gọi cho mẹ về
Hay ông cũng thấy ê chề?
Ruột gan đau thắt, não nề, chơ vơ?
Hay con phải gọi nhà thờ
Như lời mẹ dặn, Chúa chờ giang tay?
Ô hay! số ấy đây này
Cám ơn ông nhé, con đây gọi liền
Thiên đàng, với bóng mẹ hiền
Xin mau bôi xóa ưu phiền con mang
Bài thơ trong điệu lục bát nghe thân thương như một bài hát ru, mang đầy hồn thơ Việt.Tôi rất thích hai chữ “hồn thơ”. Theo tôi, mỗi bài thơ đều có hồn và người cảm được cái hồn thì mới thích bài thơ đó.
Có lẽ vì thế mà thưởng thức thơ bằng ngoại ngữ bao giờ cũng khó hơn.
Vậy mà gần đây nhóm Việt Bút vừa đón nhận một thành viên mới, một người Mỹ làm thơ tiếng Việt.Tôi gọi ông là chú Sáu thay vì Mr. Steve Brown.
Chú Sáu đã từng đóng quân ở Việt Nam, nơi đó chú đã gặp thím Sáu.
Vài ngày sau khi gia nhập nhóm, chú Sáu ra mắt mọi người bằng một bài thơ lục bát. Thơ chú Sáu đặc biệt với cách dùng chữ là lạ của một người rất giỏi tiếng Việt nhưng không phải là người Việt, nghe vưà độc đáo vưà ngộ nghĩnh. Chẳng hạn như trong bài thơ tả cảnh của chú:
Hoa màu đỏ nở trước nhà
Nhưng nàng hay ngắm đi xa vắng rồi
Đi qua một chỗ xa xôi
Màu hoa thật đẹp trên đồi chung quanh
Em ơi, hãy đến cùng anh
Đôi ta thưởng thức gió hanh một hồi
Những điều giản dị mà thôi
Thỏa lòng cuộc sống, lôi thôi khỏi cần
Tôi đã cười vì thấm ý với hai câu kết, nhất là khi tưởng tượng chú Sáu nói “lôi thôi khỏi cần” bằng giọng Bình Định của quê thím Sáu...
Sau đó, anh TQ Sỹ chỉ cho nhóm Việt Bút làm thơ Đường. Anh tóm tắt niêm, luật bằng những câu vè ngắn, dễ nhớ làm cho mọi người thích thú. Người thích nhất có lẽ là chú Sáu.
Chú áp dụng những quy luật một cách thật chính xác và hăng hái tập luyện. Đối với chú Sáu, việc theo sát niêm luật như theo công thức toán có vẻ không khó lắm, nhưng chú khá chật vật trong việc tìm ý đối cho các câu thực (câu 3,4) và câu luận (câu 5,6).
Cũng là chuyện tự nhiên thôi, ngay cả chúng tôi - những người nằm mơ bằng tiếng Việt - mà còn phải vò đầu với phần đối khi làm thơ Đường.
Tuy vậy, với lòng yêu tiếng Việt thật đậm đà và óc cầu tiến, chú Sáu đã kiên nhẫn trau giồi và tiến bộ rất nhanh.Bài thơ Đường mới nhất của chú vừa đúng niêm luật, vưà chỉnh ý mà vẫn có những câu mộc mạc, dễ thương.
Muôn màu tàn hết có ngờ đâu
Đến cuối mùa Thu cảnh nhuốm sầu
Hãy chớ nản lòng, đừng tuyệt vọng
Không cần đổ lệ, khỏi cần lau
Cứ xem lúc đó như thời vận
Hãy thấy mùa qua tựa chiếc cầu
Để chở mình qua mùa quá đẹp
Khi đôi ta dạo chơi cùng nhau
Người Mỹ mà thích làm thơ Việt và làm giỏi như chú Sáu thật là hiếm có. Đôi khi tôi có ý nghĩ dí dỏm rằng không biết chú Sáu có duyên với thím Sáu nên yêu thơ Việt, hay vì chú có duyên “tiền định” với thơ Việt nên ông Tơ Hồng cho chú gặp vợ Việt Nam…
Ngày trước, khi có giờ rảnh, Bố tôi ngâm một vài bài thơ và ghi âm vào băng nhưạ. Cái máy thâu âm lúc đó có hai băng nhựa to như hai cái điã, và tôi đã nhiều lần ngồi bên Bố, chăm chú nhìn những vòng băng nâu nhạt quay quay, nín thở giữ im lặng cho Bố ghi lại những bài thơ ông thích nhất.
Ngày đi Mỹ, Bố Mẹ tôi không đem theo cái máy cũ kỹ, nặng nề đó.Bố tôi bây giờ đã lẫn rồi. Ngay cả tôi ông cũng ít nhận ra, nói gì tới nhớ được thơ.
Những bài thơ đã phai ở trên băng nhựa, đã nhoà ở trong óc Bố nhưng may thay chúng vẫn còn ở trong tôi.
Những bài thơ vẫn dẫn đường cho tôi về thăm lại miền tuổi thơ, có Mẹ tôi ngồi mỉm cười nghe Bố tôi ngâm thơ ru chị em tôi ngủ.Con gái cuả tôi bây giờ cũng thích thơ và làm thơ giỏi lắm.
Thơ của cháu đăng trên các diễn đàn từ lúc mười tuổi được nhiều người khen. Ngược lại với tôi, cháu rành thơ tiếng Anh và chỉ biết chút ít thơ tiếng Việt. Nhưng, theo những gì tôi thấy chung quanh, thế hệ sinh ra ở Mỹ thường trở về gần gũi với nguồn Việt Nam khi các cháu trưởng thành.
Ngạn ngữ Mỹ có câu “Quả táo chẳng thể nào rơi xa gốc cây” (The apple never falls far from the tree), cho nên dù diễn tả bằng tiếng Việt hay tiếng Anh, thơ đã được nối từ tôi qua con gái.
Cây táo được nuôi lớn bằng những lời ru của Bố tôi, của bà nội tôi, và những đời xa hơn nữa, đang kết trái đơm hoa trên xứ Mỹ.
Tôi hy vọng cây luôn luôn mạnh mẽ, tươi tốt để một ngày mang trái ngọt về bồi lại làng quê nơi Bố đã ra đời. Tôi tin là chuyện đó sẽ xảy ra.
Sẽ xảy ra nếu tôi chăm chỉ tưới cây bằng những câu ca dao, những bài thơ, bài văn, âm nhạc, và những trang sử Việt… Và các con tôi cũng làm như thế.
Khôi An
@@ tks t.g !!
Duy Quang-Người nghệ sĩ tài hoa... bạc mệnh
Duy Quang chính thức khởi nghiệp ca hát năm 17 tuổi, nhưng thực sự dòng máu nghệ thuật đã đến với ông từ khi mới lên 5; 10 tuổi ông đã rành rẽ nhạc lý, ông có thể chơi nhiều nhạc cụ từ mandolin, trống, guitar cho tới cả dương cầm.
Cùng với các em, đầu những thập niên 70 của thế kỷ trước, người anh cả Duy Quang thành lập ban nhạc gia đình The Dreamers, với Duy Minh chơi trống, Duy Hùng chơi guitar, Duy Cường chơi organ, hai cô em gái là Thái Hiền và Thái Thảo trong vai trò ca sĩ.
Mặc dù ông lớn lên trong thời chiến, vậy nhưng âm nhạc ông hát lại chịu sự ảnh hưởng của dòng nhạc nước ngoài, từ những chất nhạc dễ nghe, êm tai như pop, ballad cho tới rock and roll, có lẽ vì thế mà các bản nhạc mà The Dreamers chọn trình diễn thường là của The Rolling Stones, Carpenter, The Beatles hay The Shadows. The Dreamers trở thành một trong những ban nhạc tiên phong chơi các ca khúc quốc tế thịnh hành hồi đó.
Ngoài khả năng hát và chơi nhạc nước ngoài, Duy Quang còn được cha là nhạc sĩ Phạm Duy dành “độc quyền” cho nhiều bài hát tiếng Việt do ông sáng tác, cho đến giờ những ca khúc như Còn Một Chút Gì Để Nhớ, Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, Chỉ Chừng Đó Thôi, Em Hiền Như Masoeur hay Thà Như Giọt Mưa…vẫn là những đỉnh cao mà khó ca sĩ nào vượt qua được giọng hát Duy Quang.
Ông được người nghe yêu mến bởi chất giọng truyền cảm, trong và ấm, với hơn 400 ca khúc kể từ khi còn trong nước cho đến khi sang Hoa Kỳ định cư năm 1979.
Người nghe nhạc Việt Nam hẳn vẫn nhớ những phút giây thăng hoa của Duy Quang và Julie trên sân khấu, khi 2 người trong ban nhạc The Dreamers, họ là cặp đôi đẹp dưới cả ánh đèn màu và cả dưới ánh mắt của những người hâm mộ tiếng hát họ.
Ông trời chẳng cho ai sự trọn vẹn!Được xem là cặp song ca đẹp nhất một thời, nhưng Duy Quang và Julie cuối cùng mỗi người mỗi ngả, ông từng tâm sự rằng mối tình đầu đó mau tan vì khi đó ông còn quá trẻ, chẳng có kinh nghiệm trong đời.
Ông lập gia đình lần đầu tiên năm 1984 với cô Mỹ Hà, vốn là Hoa khôi người Việt tại thủ đô Washington, Duy Quang sau đó, có 2 người con gái.
Cuộc hôn nhân kéo dài 18 năm, nhưng lại đong đầy phiền muộn, có lần khi nói với báo chí trong nước, ông từng chia sẻ “lấy nhau không phải vì tiền mà lại xa nhau vì đồng tiền đỏ đen.”
Trong mười năm trời ông đã từng phải bán ba căn nhà để trả nợ cho vợ, nhiều lúc muốn buông xuôi vì hôn nhân đổ vỡ. Hai năm sau, năm 2004, ông quyết định về lại Việt Nam sinh sống.
Trên mảnh đất quê nhà, niềm vui trong âm nhạc đã trở lại với ông, ông mở phòng trà, ra album và đi hát nhiều show lớn.
Năm 2007, ông bước tiếp lần nữa với ca sĩ Yến Xuân, thế nhưng, đường tình duyên vẫn lận đận, ông chia tay 2 năm sau đó.
Duy Quang được biết đến hầu như với vai trò là ca sĩ, thế nhưng ông cũng có viết một số bài nhạc, mà trong đó Kiếp Đam Mê là tác phẩm được công chúng biết đến hơn cả. Nhân vật trong Kiếp Đam Mê của Duy Quang chưa bao giờ được tiết lộ, nhưng ông từng nói rằng cô ấy rất đẹp và cô cũng xuất hiện trong một ca khúc khác của ông là Vì Yêu Em.
… Nếm trải vị ngọt đắng ở đời, tôi biết mỗi ngày đang qua là mỗi ngày đáng sống…
Mỗi ngày sắp đến là một ngày vui của tôi.
Có lẽ trong mỗi giai đoạn, con người có những ý thích khác nhau. Bây giờ, tôi chỉ mong muốn cuộc sống thanh thản, hạnh phúc…
Lời tâm sự ấy của ông khi một thời trẻ đã qua đi, những ham muốn vật chất không còn ý nghĩa, ông chỉ cầu mong sự bình yên của một chốn đi về sau những đêm diễn.
Khi cuộc sống trở lại phẳng lặng, ông sống độc thân khép kín, thì cũng là lúc căn bệnh ung thư gan ác tính ập đến. Sau nhiều ngày chống chọi, ông trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay bè bạn và gia đình vào lúc 11h30 trưa ngày 19/12 tại California.về cõi vĩnh hằng, ông Kỳ Phát một người bạn thân với ca sĩ Duy Quang hơn 40 năm ngậm ngùi chia sẻ:
Khi anh bị bệnh, tôi được báo là 7/11 vừa qua anh Duy Quang về lại Mỹ để chữa bệnh.
Anh đến bác sĩ Michael Đào, đến đó để bác sĩ Đào lo đưa anh vào bệnh viện Orange Coast Hospital, anh ở đó 3 ngày thì bác sĩ cho biết là anh bị ung thư gan thời kỳ cuối cùng, thì bệnh viện cho anh về, không có chemo, cũng như không mổ nữa. Mỗi ngày tôi đều đến thăm anh.
Cũng có một số người chỉ cho Duy Quang uống loại thuốc của anh Từ Công Phụng đã uống mà anh Từ Công Phụng đang bình phục.
Anh Duy Quang đã theo phương pháp đó để mà chữa trị, vài ngày sau thì anh Duy Quang có vẻ ăn được, anh Duy Quang mỗi lần đi đâu ăn, cũng có rủ tôi và một số người bạn, thì thấy anh Duy Quang ăn được.
Nhưng khoảng chừng 1 tuần nay, anh Duy Quang có vẻ yếu đi, tức là thứ 7 vừa rồi, anh mệt và được đưa vào bệnh viện Fountain Valley, cho đến ngày qua đời, thì anh nằm trong đó, phòng săn sóc đặc biệt.
Khi anh Duy Quang ra đi có tất cả 3 người con của Duy Quang là 3 cô con gáiPhạm Mỹ An, Phạm Mỹ Kim, LyLan ( con chung Julie + Duy Quang ),.. và các em ở bên khi anh Duy Quang ra đi.
Mặc dù giờ phút sau cuối, không được các bác sĩ cho phép vào phòng gặp ca sĩ Duy Quang, nhưng ông Kỳ Phát cũng có mặt trong bệnh viện, khi ông vừa rời khỏi đó 10 phút thì ca sĩ Duy Quang ra đi.
Ông Kỳ Phát nói rằng tuần trước, một số anh chị em nghệ sĩ cũng như người hâm mộ tại California đã tổ chức 2 đêm nhạc để gây quỹ cũng như để tri ân với người nghệ sĩ tài hoa nhưng sớm bạc mệnh.
Qua làn sóng của đài ACTD, thay mặt anh chị em ban Việt Ngữ, Vũ Hoàng xin gửi lời thành kính phân ưu đến gia quyến, cầu chúc ông yên giấc ngàn thu.
Vũ Hoàng
RFA ,@@tks PV VH!
Vicky Nguyễn & Rose Parade 2013
Trong hàng trăm cái tên ra ứng cử hoặc tự ứng cử cho buổi Diễn Hành Hoa Hồng sắp tới, Donate Life chọn Vicky Nguyễn, người phụ nữ trải qua hai lần thay gan, một lúc 2 tuổi và một lúc 16 tuổi, nhưng luôn lạc quan và ra sức đóng góp cho cộng đồng, nhất là trong việc kêu gọi hiến tặng cơ phận.
“Rất vui và tự hào,” Vicky trả lời nhật báo NV, “Mình đã giúp Donate Life trang trí xe hoa bốn lần rồi. Ðây là lần đầu tiên, và cũng sẽ là lần duy nhất, mình được đại diện để đi cùng xe hoa. Hồi hộp lắm.”
Không bao lâu sau khi ra đời, Vicky bị chẩn đoán có bệnh bẩm sinh về ống mật, khiến cho gan không thể hoạt động bình thường.
Năm 1986, khi Vicky chưa được hai tuổi, cô trở thành một trong 30 bệnh nhân đầu tiên được thay gan tại bệnh viện của đại học UCLA.
May mắn, cuộc phẫu thuật thành công và cơ thể cô không đào thải lá gan mới.
Trong độ tuổi đi học, Vicky không những học tập xuất sắc mà còn tham gia các hoạt động thể dục thể thao.
Tuy vậy, đến năm 16 tuổi, Vicky phải trở lại phòng phẫu thuật để đổi tấm lá gan cũ không còn hoạt động.
Một lần nữa, lá gan mới cứu sống cô. Vicky hiện 28 tuổi, sống và làm việc trong lãnh vực y tế tại Los Angeles.
Dù từ nhỏ đã phải chống chọi lại các vấn đề sức khỏe, thường xuyên đến bệnh viện hay liên tục uống các loại thuốc khác nhau, Vicky cho mình là người may mắn.
Cô nói: “Khi một người bị bệnh cần phải thay các cơ phận, ví dụ như gan hay thận, người đó phải đợi cho đến khi có một cơ phận thích hợp.
Nhiều người phải chờ rất lâu, có người chết trước khi nhận được cơ phận.
Mình may mắn hơn nhiều người khác.”
Tiếp tục sống mỗi ngày bên người thân và bạn bè nhờ những lá gan từ những người không quen biết, Vicky ra sức giúp đỡ người khác, nhất là những bệnh nhân thiếu nhi cần được thay cơ phận.
Cô tham gia tổ chức Donate Life để giúp vận động mọi người hiểu biết thêm về sự quan trọng của việc hiến tặng.
Năm 2012, trong tư cách đại sứ của Donate Life, Vicky giúp dự luật AB 1967 được thông qua tại California.
Ðiều luật này thiết kế và áp dụng những buổi học về hiến tặng cơ phận tại các trường trung học trong tiểu bang.
Vicky nói: “Nhiều người rất sợ khi nghe đến việc hiến tặng cơ phận.
Khi mình đến DMV ghi danh cho cơ phận trong trường hợp qua đời vì tai nạn, nếu mình có gặp tai nạn, nhân viên không mặc kệ mạng sống mình để lo lấy cơ phận, như một số người lo sợ, mà họ sẽ ra sức cứu mình trước.”
Cô giải thích thêm: “Việc giải phẫu lấy cơ phận chỉ diễn ra sau khi họ không còn cách để giữ mạng sống của mình. Và trong trường hợp đó, dù phải lìa xa cõi đời, mình có thể cứu sống một người nào đó bằng cơ phận mình hiến tặng.”
Những câu nói trên cũng chính là lý do Vicky kêu gọi mọi người tìm hiểu và ghi danh hiến tặng cơ phận để có thêm nhiều bệnh nhân có may mắn sống sót như bản thân cô.
Sự cống hiến không ngừng của Vicky Nguyễn dành cho cộng đồng là lý do cô được bầu là một trong 12 người trong danh sách “12 Most Inspiring Women của Donate Life America” trong năm 2012.
Ngoài ra, cô được vinh dự là một trong ba người đại diện của tổ chức sẽ theo đoàn xe hoa tại buổi diễn hành hoa hồng Rose Parade 2013.
“Gia đình rất tự hào về Vicky, rất ít người được tham dự buổi diễn hành,” ông Sỹ Nguyễn, thân phụ của cô, chia sẻ, “Dù phải thay gan hai lần, em không buồn, lúc nào cũng nghĩ đến cộng đồng.”
Khi được hỏi rằng quá nhiều hoạt động xã hội có ảnh hưởng đến chuyện học hay công việc của Vicky không, ông Sỹ cho biết: “Hồi nhỏ Vicky cứ phải đến bệnh viện, nên còn bị ảnh hưởng nhiều hơn.
Em hoạt động xã hội là tốt cho cộng đồng, cũng tốt cho sức khỏe. Gia đình ủng hộ và rất tự hào.”
Bên cạnh các công tác thiện nguyện, công việc chính của Vicky là nhân viên kinh doanh cho một công ty quản lý y tế. Cô sống một mình tại Los Angeles với hai chú chó nhỏ.
“Hai lần phẫu thuật gan là một ơn thượng đế đã ban cho mình,”
Vicky nói. “Mình hiện 28 tuổi, là đã sống với lá gan của người khác hiến tặng hơn 26 năm. Những khó khăn thử thách đã hóa thành cơ hội trong cuộc sống.
N.Lan ,nvnews
@@ tks Vicky N& t/g NLan
Tử Vi Tiếu Lâm
Người tuổi Sửu hợp với người tuổi Ngọ, theo quẻ… "đầu trâu mặt ngựa".
Người hai tuổi này mà cưới nhau chắc chắn sẽ thành công nếu cả hai vợ chồng cùng làm việc trong lĩnh vực… xã hội đen
- Người tuổi Sửu và người tuổi Ngọ hợpvới người cùng tuổi, theo quẻ "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã".
Những người này cưới nhau sinh con đẻ cái đảm bảo con cái chắc chắn sẽ… thuần chủng.
- Người tuổi Mão hợp với người tuổi Dậu, theo quẻ "mèo mả gà đồng". Người hai tuổi này đi với nhau chắc chắn có một tình yêu mãnh liệt và hoang dại
.- Người tuổi Thìn hợp với người tuổi Dậu, theo quẻ "rồng bay phượng múa"
(tại vì Phượng không thuộc 12 con giáp nên lấy gà là con vật gần giống Phượng nhất để thay thế).
Người hai tuổi này cưới nhau chắc chắn tình yêu, tiền tài, sự nghiệp sẽ đẹp đẽ, thăng hoa.
- Người tuổi Tỵ rất khắc với người tuổi Dậu, theo quẻ "cõng rắn cắn gà nhà".
-Nếu 2 người này cưới nhau về thế nào người tuổi gà cũng bị người tuổi rắn cắn chết, không loại trừ khả năng vụ án xảy ra trong lúc yêu đương bối rối, đương sự cắn lầm
.- Người tuổi Tý khắc với người tuổi Sửu hoặc Ngọ, theo quẻ… "đầu voi đuôi chuột" (vì voi cũng không có trong 12 con giáp nên ngựa và trâu, hai con giáp to gần bằng voi nhất có thể thay thế).
Người mấy tuổi này cưới nhau thì chỉ được tiền vận suôn sẻ, tốt đẹp, còn hậu vận bi bét, không loại trừ khả năng gia đình phá sản, vợ chồng ly di, con cái nghiện ngập, hư hỏng.
- Người tuổi Mùi hợp với người tuổi Tuất theo quẻ "treo đầu dê, bán thịt chó".
Hai vợ chồng tuổi này chắn chắc sẽ làm ăn phát đạt, thịnh vượng, đặc biệt là trong lĩnh vực… buôn gian bán lận, lừa đảo.
- Tuy nhiên, người tuổi Tuất lại khắc với người tuổi Dậu, theo quẻ "chó cậy nhà, gà cậy vườn".
Hai vợ chồng tuổi này chẳng chóng thì chầy sẽ xung khắc, chia rẽ nội ngoại, dẫn tới ly di, chia con, chia nhà.
- Thật ra, người tuổi Dậu, ngoài hợp với tuổi Mão và tuổi Thìn như đã nói ở trên,còn hợp với người tuổi Hợi, theo quẻ "đầu gà má lợn".
Người hai tuổi này cưới nhau nhiều khả năng thành công trong lĩnh vực kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh… nhà hàng, đồ nhậu.- Cuối cùng ..người tuổi Dã tràng, tính tình ngang như cua...dễ thích ứng với hoàn cảnh, rất dị ứng với bất công xã hội...chỉ thích hợp với...vài người.
.Người tuổi này dễ bảo, nhưng khó nắm đầu( vì hết tóc ).
Huyền LL
@@ woa ,tks t/g ,dzui dzui,hahaha !!
Người hai tuổi này mà cưới nhau chắc chắn sẽ thành công nếu cả hai vợ chồng cùng làm việc trong lĩnh vực… xã hội đen
- Người tuổi Sửu và người tuổi Ngọ hợpvới người cùng tuổi, theo quẻ "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã".
Những người này cưới nhau sinh con đẻ cái đảm bảo con cái chắc chắn sẽ… thuần chủng.
- Người tuổi Mão hợp với người tuổi Dậu, theo quẻ "mèo mả gà đồng". Người hai tuổi này đi với nhau chắc chắn có một tình yêu mãnh liệt và hoang dại
.- Người tuổi Thìn hợp với người tuổi Dậu, theo quẻ "rồng bay phượng múa"
(tại vì Phượng không thuộc 12 con giáp nên lấy gà là con vật gần giống Phượng nhất để thay thế).
Người hai tuổi này cưới nhau chắc chắn tình yêu, tiền tài, sự nghiệp sẽ đẹp đẽ, thăng hoa.
- Người tuổi Tỵ rất khắc với người tuổi Dậu, theo quẻ "cõng rắn cắn gà nhà".
-Nếu 2 người này cưới nhau về thế nào người tuổi gà cũng bị người tuổi rắn cắn chết, không loại trừ khả năng vụ án xảy ra trong lúc yêu đương bối rối, đương sự cắn lầm
.- Người tuổi Tý khắc với người tuổi Sửu hoặc Ngọ, theo quẻ… "đầu voi đuôi chuột" (vì voi cũng không có trong 12 con giáp nên ngựa và trâu, hai con giáp to gần bằng voi nhất có thể thay thế).
Người mấy tuổi này cưới nhau thì chỉ được tiền vận suôn sẻ, tốt đẹp, còn hậu vận bi bét, không loại trừ khả năng gia đình phá sản, vợ chồng ly di, con cái nghiện ngập, hư hỏng.
- Người tuổi Mùi hợp với người tuổi Tuất theo quẻ "treo đầu dê, bán thịt chó".
Hai vợ chồng tuổi này chắn chắc sẽ làm ăn phát đạt, thịnh vượng, đặc biệt là trong lĩnh vực… buôn gian bán lận, lừa đảo.
- Tuy nhiên, người tuổi Tuất lại khắc với người tuổi Dậu, theo quẻ "chó cậy nhà, gà cậy vườn".
Hai vợ chồng tuổi này chẳng chóng thì chầy sẽ xung khắc, chia rẽ nội ngoại, dẫn tới ly di, chia con, chia nhà.
- Thật ra, người tuổi Dậu, ngoài hợp với tuổi Mão và tuổi Thìn như đã nói ở trên,còn hợp với người tuổi Hợi, theo quẻ "đầu gà má lợn".
Người hai tuổi này cưới nhau nhiều khả năng thành công trong lĩnh vực kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh… nhà hàng, đồ nhậu.- Cuối cùng ..người tuổi Dã tràng, tính tình ngang như cua...dễ thích ứng với hoàn cảnh, rất dị ứng với bất công xã hội...chỉ thích hợp với...vài người.
.Người tuổi này dễ bảo, nhưng khó nắm đầu( vì hết tóc ).
Huyền LL
@@ woa ,tks t/g ,dzui dzui,hahaha !!
Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012
Một Đời Đau Thương( end)
- Tượng Phật này là của vợ tôi tặng cho tôi khi chúng tôi mới lấy nhau.
Sợi dây chuyền bị đứt rồi, nhờ bà giữ giùm vì tôi không có chỗ cất sợ để mất đi.
Tôi cầm sợi giây chuyền vàng, thật sự sợi giây không bị đứt chỉ có cái móc bị gãy thôi. Trong khi tôi còn mân mê sợi giây chuyền trên tay thì dường như Kevin không cầm lòng được nên bắt đầu kể cho tôi nghe về cuộc đời bi thảm của ông.
Nếu nói theo số mệnh thì Kevin là người khổ hạnh cho nên cuộc đời của ông thật nhiều đớn đau.
Kevin lớn lên mồ côi cha mẹ, sống với một bà dì góa bụa.
Sau khi xong trung học hai năm thì Kevin bị động quân và được gửi qua Việt Nam đóng binh ở Kontum. Nơi đây Kevin đem lòng thương một một cô gái miền cao nguyên chất phác, hiền lành.
Cha mẹ cô gái sống trong khu gia binh rất nghèo và đông con nên khi Kevin ngõ lời muốn cưới để đưa cô về Mỹ ở thì hai ông bà đồng ý ngay.Chẳng may sau một đêm khu gia binh bị pháo kích thì cô gái bị trúng đạn chết.
Kevin rất đau khổ và chỉ vài tháng sau khi ra chiến trường thì bị thương trên xương sống rồi được đưa trở về Mỹ.
Khi trở về với tấm thân tàn tật và sự ám ảnh tàn khốc của cuộc chiến điêu tàn ở Việt Nam khiến Kevin bị khủng khoảng tinh thần. Vì phải mổ xương sống mấy lần nên Kevin nằm nhà thương gần cả năm trời.
Lúc xuất viện thì bà dì góa bụa của ông ta qua đời.
Một thân một mình, Kevin sống qua ngày trong căn nhà nhỏ của bà dì cho đến khi bị bệnh chấn động mạch máu não thì không thể lo cho chính mình, và sau nhiều lần ra vào nhà thương thường xuyên, Kevin đồng ý vào một viện dưỡng lão ở tạm.
Ngày tháng ở trong viện dưỡng lão này là một nỗi đọa đày đối với Kevin.
Sống chung đụng với những người già nua nhiều thụ động càng làm cho Kevin qúa chán chường. Nhưng chính nơi chốn buồn tẻ này lại là môi trường mà Kevin đã gặp thêm một phụ nữ Việt Nam khác, người vợ mà ông quí trọng yêu thương nhất.
Cô Lài làm y tá phụ. Một trong những phận sự của cô là mỗi tối giúp cho Kevin thay áo quần sửa soạn để đi ngủ.
Vì hai chân của Kevin qúa yếu nên mỗi lần di chuyển từ cái xe lăn qua tới giường nằm thì cô Lài dường như phải dùng hết sức từ hai cánh tay của mình nâng cả cơ thể của Kevin để đưa qua.
Dạo đó Kevin xử dụng chiếc xe lăn thường nên cái ghế không cao như xe lăn điện hiện đang có nên dự di chuyển từ chiếc xe lăn qua giường rất khó khăn.
Kevin thấy cô Lài nhỏ nhắn, mỗi lần cô phụ như vậy thì Kevin thấy rất áy náy.
Cô Lài tiếng Anh thì hạn chế nhưng cô cũng hiểu được sự quan tâm của Kevin đối với cô nên lần nào cô cũng nhắc Kevin là cô tuy nhỏ người nhưng lại mạnh, vả lại đây là nhiệm vụ của cô.
Mỗi ngày cô Lài đi làm vào ca chiều, Kevin ngồi ở ngay cửa nhìn cô thoăn thoắt đi vào và để ý là cô làm việc rất chăm chỉ, ai cô cũng lo lắng rất chu đáo cho nên tất cả mọi người trong viện dưỡng lão đó đều thương mến cô.
Kevin để ý là khoảng sáu giờ chiều sau khi phụ những bệnh nhân ăn uống xong thì cô Lài ra ngồi một mình trên chiếc ghế đá ở một góc sân bắt đầu ăn cơm và đọc một cuốn sách nhỏ trong tay. Sau vài tuần để ý thì Kevin mân mê lại làm quen.
Được biết cô Lài lúc trước ở miệt Phan Rang, khi cộng sản chiếm nước được vài năm sau thì cha mẹ cô mượn được một số vàng cho cô đi theo chiếc tàu chở mướn qua được tận đảo bên Mã Lai. Sau một thời gian đợi chờ mòn mỏi thì cô được bốc qua Mỹ.
Qua đến Texas cô vừa đi học chương trình ESL luyện Anh ngữ và vừa xin đi học ra làm y tá phụ.
Với đồng lương có giới hạn của một phụ tá, cô Lài hàng tháng vẫn đều đặn gửi tiền về giúp cho cha mẹ nuôi đàn em ở Việt Nam.
Cô vẫn hằng mong muốn có dịp trở về thăm quê và thăm gia đình nhưng mỗi lần nghĩ tới tốn phí di chuyển thì cô lại tiếc, vả lại số vàng mà cha mẹ cô mượn bây giờ cô phải đi làm trả lại cho chủ nợ ở bên Mỹ này.
Kevin thấy cô cầm một cuốn sách mỏng bằng tiếng Việt Nam và mỗi ngày lại đọc vài trang sau khi ăn cơm.
Cô Lài cho biết đó là cuốn phật kinh, cô đọc cho tâm hồn được thư thái.
Cô là một phật tử sùng đạo với một niềm tin mãnh liệt là con người phải sống cho chân chính thì mọi việc sẽ tốt lành trong đời sống.
Lúc đầu nghe cô Lài nói thì Kevin chỉ cười ngạo báng, vì mỗi lần nhìn thân thể tàn tật của mình, nhớ tới những cảnh bom đạn, chết chóc trong cuộc chiến mà ông ta từng tham dự ở Việt Nam thì Kevin không khỏi giận dữ.
Kevin đâm ra nghi ngờ sự che chở của đấng linh thiêng. Cô Lài nghe vậy vẫn không nản chí, cô tiếp tục đọc kinh và nhẫn nại nói về niềm tin của mình.
Sau một thời gian gặp gỡ, trò chuyện với cô Lài, Kevin cảm thấy lòng dịu lại. Nỗi buồn thì còn đó nhưng đã bớt được sự phẫn nộ đối với cuộc đời.
Riêng cô Lài cũng cảm thấy bớt cô đơn.
Hai người trở nên tâm đầu hợp ý và môt năm sau thì tất cả mọi người trong viện dưỡng lảo GF hoan hỉ tổ chức một cái đám cưới nhỏ cho cả hai.Kevin không ngờ đời mình lại may mắn như thế. Cô Lài nhận lời cầu hôn của Kevin không một chút do dự, đắn đo.
Qùa cưới của Kevin dành cho cô Lài là lời tuyên bố sẽ ra tòa xin đổi họ theo họ của vợ là họ Ngô.
Tôi nghe câu chuyện tới đây thì cảm động rưng rưng nước mắt.
Thì ra là như thế nên Kevin mới có họ Việt Nam. Nếu tôi là một nhà văn thì tôi có thể viết nên một câu chuyện tình rất tuyệt vời. Kevin tiếp tục kể:
- Bà biết không, Lài là một người vợ hiền và là một người đàn bà rộng lượng nhất trên đời. Tôi học được cái tính nhẫn nhục, vô vụ lợi của Lài. Tôi tàn tật không lo được cho Lài, mỗi ngày Lài đi làm thì tôi chỉ biết đợi chờ và trong lúc đó thì tôi tìm hiểu thêm về đạo Phật.
Cuốn sách đầu tịên tôi đọc là cuốn sách của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Bà đã đọc "Đường Xưa Mây Trắng" chưa?
Tôi không biết Phật giáo có bao nhiêu phái chỉ biết là thiền sư này viết sách qúa hay.
Tôi càng đọc càng thấm thía những gì Lài đã cố nhẫn nại khuyên răn tôi sống một đời sống đầy ý nghĩa và rộng lượng bao dung bởi vì mai này ai cũng chết, chỉ có những gì mình để lại cho đời mới đáng kể thôi.
Ông kể tiếp cho biết là sau khi làm đám cưới ông và cô Lài thuê một căn nhà nhỏ.
Cô Lài vừa đi làm vừa săn sóc cho ông. Cuộc sống tuy vất vả vì cô Lài phải cáng đáng mọi chuyện trong nhà nhưng không bao giờ cô than vãn. Nổi mong muốn duy nhất của cô Lài là được trở về thăm gia đình.
Vì muốn có một số tiền chi phí cho chuyến đi nên cô Lài đi làm bất chấp gìờ giấc. Kevin thấy xót xa cho vợ nên trong lúc ở nhà ông ta đóng những cái chuồng nuôi chim nho nhỏ và đứng trước những góc đường bán, hoặc bán cho những người làm trong nhà thương mà ông quen biết.
Nghe Kevin kể, tôi nghĩ tới hộp đồ nghề và cái chuồng chim xéo xẹo của ông trên chiếc xe lăn mà đâm ra tội nghiệp. Tự nhủ là mai mốt Kevin lành bệnh thì tôi cũng sẽ đặt ông làm cho vài ba cái chuồng nhỏ nuôi chim sau sân nhà.
Kevin còn cho biết là cả hai vợ chồng ông đều ăn chay trường.
Cô Lài ăn chay trường vì lời nguyền từ khi biết đưọc tin mẹ cô bị ung thư tử cung.
Cô mãnh liệt tin rằng với sự cầu nguyện hy sinh chân thành của cô thì mẹ cô sẽ tai qua nạn khỏi.
Kevin ăn chay vì trong lòng anh muốn cám ơn bà mẹ vợ đã có công nuôi dưỡng dạy dỗ vợ anh từ thưở nhỏ nên anh mới có được một cô vợ thật thà rộng lượng như vậy.
Tôi nhìn nét mặt khắc khổ của Kevin, không ngờ dưới bộ mặt hung hăng của người cựu chiến binh Việt Nam đó lại chất chứa môt tâm hồn dịu dàng chân thành.
Tôi đang tự hỏi không biết câu chuyện của Kevin kể sẽ đưa đến thêm những chi tiêt bi đát nào nữa thì không dưng Kevin nhìn tôi lạ lùng:
- Như tôi đã nói mai này ai cũng chết nhưng cái chết của vợ tôi thì qúa tức tưởi, bất ngờ. Trời Phật không công bằng với tôi cho nên bắt tôi chịu đựng từ những khổ đau này đến tai biến khác.
Có lẽ kiếp trước tôi vụng tu đó bà.
Nói đến đây thì Kevin nghẹn lời, tia mắt quắc lên một tia nhìn giận dữ:
- Quê hương nhỏ bé của bà là mảnh đấtoan nghiệt nhất mà tôi thấy trong đời. Chính mảnh đất ấy, bằng cách này hoặc cách khác đã cướp mất những yêu thương trong đời của tôi. Lài là người đàn bà thứ hai đã bỏ tôi trên cuộc đời đầy cô đơn, buồn tẻ này.
Theo chuyện Kevin kể lại, tôi được biết cách đây ba năm, cô Lài mừng rỡ dành giụm được một số tiền để trở về Việt Nam thăm bà mẹ đang bệnh ung thư.
Kevin khuyến khích vợ nên về ngay để còn có thì gìờ ở bên mẹ trong lúc bà còn tỉnh táo.
Cô Lài hớn hở trở về và tính ở bên nhà cho trọn một tháng.
Hai tuần lễ đầu cô Lài điện thoại về cho chồng kể chuyện về gia đình nghe vui ghê lắm.
Rồi chỉ vài hôm sau đó anh nhận được một tin làm anh bàng hoàng, chới với.
Cô Lài trong lúc băng qua đường phố bị xe tông chết.
Tôi nhớ đến những lần bắt gặp Kevin lái chiếc xe lăn bất chấp hiểm nguy để băng qua đường trong làn sóng xe tấp nập.
Phải chăng đây là sự thử thách ngạo mạn của ông với định mệnh?
Như định mệnh đã cướp mất người vợ hiền lành cao qúi của ông.
Cô Lài chết trong lúc bà mẹ bệnh hoạn vẫn còn để thầm khóc nhớ thương con.
Kevin cũng thầm khóc thiết tha nhớ vợ.
Trên đời này có lẽ không bao giờ anh có thể tìm được một người đàn bà nào khác đầy lòng từ bi như cô Lài.
Từ đó cuộc sống đối với Kevin không còn ý nghĩa, ông đâm ra gàn bướng, cáu kỉnh với mọi ngưòi. Vài tháng sau Kevin gom góp hết chút tài sản chất lên chiếc xe lăn và ra sống dưới gầm cầu SC.
Tôi lặng người nghĩ đến số phận qúa hẩm hiu của Kevin rồi bỗng thấy xót xa.
Còn biết bao nhiêu người là nạn nhân của chiến tranh và nạn nhân của cuộc đời đầy rẫy thương đau này?
Tôi đem sợi dây chuyền đưa ra tiệm nữ trang nhờ người làm lại cái móc cho thật chắc.
Khi nhìn kỹ tôi thấy trên lớp vàng mạ phía sau tượng Phật bà, hai chữ LK quấn quít nhau như tên tuổi và cuộc đời của cô Lài và Kevin đã gắn chặt với nhau như một mối duyên được phật trời sắp đặt.
Ngày hôm sau tôi đi làm thật sớm ghé lên thăm Kevin trước khi đến văn phòng.
Khi bước vào phòng của Kevin, tôi đụng ngay chiếc xe lăn bằng điện với đầy đủ "gia tài" của Kevin.
Kevin cho tôi biết là chiều nay ông ta phải chuyển qua một nhà thương dành cho cựu chiến binh cách đây một trăm dặm.
Vết thương lở loét của ông qúa sâu nên phải làm ghép da (skin graft) và nhà thương quân đội SW là nơi sẽ chịu tất cả phí tổn về việc mổ xẻ. Kevin chỉ ngay chiếc lồng chim xéo xẹo trên chiếc xe lăn và nói:
- Không có gì tặng bà làm kỷ niệm ngoài món qùa nhỏ này.
Bà tin đi bao giờ tôi khỏe, tôi sẽ trở về kiếm bà và sẽ sửa nó lại cho thẳng thớm.
Tôi cầm sợi giây chuyền bước đến đeo vào cổ cho Kevin:
- Đây là sự thương yêu của anh, hãy ráng giữ lấy niềm tin.
Trên khuôn mặt phong trần của người thương phế binh Mỹ bất ngờ có hai giòng lệ chảy dài và tôi bắt gặp một nỗi an hòa trong đôi mắt xanh biếc của Kevin khi anh bắt đầu thì thầm lời nguyện cầu:
Nam Mô A Di Đà!
Nguyễn Thị Huế Xưa
@@ tks t/g HX rất cảm động và ý nghĩa :" tình yêu Kevin & Lai`" !!
Một Đời Đau Thương
Khi tôi bước đến gần thì không cần quan sát kỹ tôi đã nhận ra sự quen thuộc của những dụng cụ linh tinh chung quanh chiếc xe lăn rất khác thường này.
Chiếc xe lăn bằng điện to gần gấp hai chiếc xe lăn thường và không có hai cái bánh xe lớn mà lại có bốn cái bánh nhỏ như bánh xe hơi nằm dưới một cái sườn vuông vứt bằng sắt cao chồng ngồng.
Trên cái sườn bằng sắt cao đó là một mặt ghế ngồi có lót bằng một miếng nệm khá dày bằng móp (eggcrate).
Phía bên phải của ghế có gắn một cái đèn chớp màu đỏ giống như đèn báo hiệu trên xe cảnh sát. Phía bên trái cũng có một cái đèn giống như vậy chỉ khác là màu xanh.
Kế đó là cái tay cầm tròn như tay sang hộp số để điều khiển chiếc xe.
Phía sau ghế có một cái khung cũng bằng sắt trong đó có đựng một hộp đổ nghề màu đen và một cái lồng chim bằng gỗ xiên xẹo.
Một cái bình đựng nước bằng nylon màu xanh két, một sợi dây xích cũ máng ngay một bên tay ghế, cái áo thun màu đỏ với giòng chữ " Peace not War" bọc sau lưng chiếc ghế.
Mỗi ngày khi ngồi ăn trưa trong văn phòng nhìn qua phía bên kia đường của cái clinic đối diện, tôi thường bắt gặp hình ảnh của một người đàn ông với đầu tóc dài rối bù như chiếc dẻ xoắn lau nhà ngồi trên chiếc xe lăn đặc biệt này với những thứ đồ lỉnh kỉnh đó.
Sở dĩ tôi chú ý đến ông ta vì dường như trưa nào đúng mười một gìờ rưỡi người đàn ông này cũng hùng hổ liều mạng lái chiếc xe lăn phăng phăng, bất chấp những dòng xe hơi nhộn nhịp, mạnh dạn băng qua phía bên kia đường để vào một quán café có cái tên là TÈO.
Mỗi lẩn ông ta rời quán TÈO thì tôi thấy ông ta cầm cái bình nylon màu xanh két dốc lên miệng.
Tôi đoán có lẽ ông ta vào quán đó mua café đổ vào bình. Tôi không nhìn rõ khuôn mặt ông ta cho lắm vì từ văn phòng tôi nhìn qua khoảng cách khá xa.
Một bữa tôi có hẹn bên văn phòng ông bác sĩ gần đó cũng vào dịp trưa, khi đứng ở cột đèn chờ dấu hiệu đèn xanh bật lên để băng qua đường tôi tình cờ thấy ông ta rõ ràng hơn.
Mái tóc dài màu hung vàng rối bù không biết là dơ vì lâu ngày không gội hay màu hung hung đó là màu tóc nguyên thủy.
Bộ râu cùng màu rập rạp che hơn nữa khuôn mặt, chỉ chừa lại cặp mắt dấu sau đôi kính đen to.
Trên người ông ta có lẽ cũng có chừng năm lớp áo mà cái áo ngoài hết là một áo rằn ri nhăn nheo.
Đôi giày bốt nâu bạc màu to như hai chiếc xuồng nằm lửng lơ trên hai miếng để chân mà tôi có cảm tưởng như hai bàn chân của ông ta qúa nhỏ so với đôi giày.
Ông ta ngồi bất động trên chiếc xe lăn, chỉ có đôi tay di chuyển để điều khiển chiếc xe thôi.
Mỗi khi chiếc xe lăn tới khiến những dụng cụ máng chung quanh tạo ra những tiếng động nhỏ kỳ khôi và cái đèn màu đỏ trên chiếc xe lăn thì cứ chớp liên hồi.
Trong khi tôi kiên nhẫn đứng chờ đèn xanh bật lên để băng qua bên kia đường thì ông ta nhìn tôi thách thức, và qua đôi kiếng màu đen đó tôi đã tưởng tượng được cặp mắt chế giễu trước khi ông ta bạc mạng lái vùn vụt chiếc xe lăn chạy qua phía bên kia lề bất chấp những giòng xe điên cuồng vội vã.
Hai buổi trưa vừa qua tôi nhìn qua cửa sổ không thấy bóng dáng người đàn ông này nên tôi cũng hơi làm lạ, không dè ông ta nhập viện và đang nằm trên lầu thứ tám này.
Tôi bước đến lật hồ sơ của phòng 828 xem, cái tên trên hồ sơ làm tôi khựng lại, Kevin Ngô.
Tôi nhủ thầm như vậy là chiếc xe lăn này để lộn qua phòng người khác rồi vì chủ của chiếc xe lăn có một không hai này không thể là người Việt Nam.
Tôi định đẩy chiếc xe lăn qua một bên và đi tìm người chủ của nó thì lúc đó một ông y tá mặt đầy tàn nhang, tóc đỏ hoe đang đi trong hành lang ngừng lại cản tôi:
- Bà đừng đem xe đi vì ông Ngô sẽ giận dữ. Tôi gặng hỏi:
- Ông Ngô?
Ông y tá tiếp tục nói:
- Đúng rồi, của cải của ông ta chỉ có bao nhiêu đó cho nên tôi phải hứa là "bảo vệ chiếc xe thì ông ta mới đồng ý để nó ở ngoài này, nếu để trong phòng thì chật chội qúa, mỗi ngày vào chữa trị vết thương cho ông ta không có chổ để máy móc.
Tôi chất vấn:
- Phải ông Ngô nằm trong phòng 828 không?
Nhìn sự thắc mắc trên khuôn mặt của tôi ông y tá lật đật nói:
- Ông Ngô nằm trong phòng đó đã hai ngày. Bà cần kiểm soát (audit) hồ sơ của ông ta hả?
Tôi không còn kiên nhẫn được nữa nên gật đầu đại cho xong chuyện:
- Ừ! Để tôi coi hồ sơ của ông ta xem sao
Kevin Ngô năm nay 54 tuổi, góa vợ, không nghề nghiệp và vô gia cư.
Ông ta nhập viện cách đây hai hôm với triệu chứng lở loét ở xương chậu (sacral decubitus).
Càng đọc tiểu sử của ông Kevin Ngô tôi càng thấy lạ thêm.
Kevin Ngô là Viet Nam Veteran, theo lý lịch hồ sơ thì ông ta là người Mỹ.
Ông ta đã từng bị gãy xương sống, chấn động mạch máu não và sau khi bình phục thì hai chân ông ta rất yếu, đã phải dùng xe lăn từ bao nhiêu năm nay.
Sau khi đọc lướt qua hồ sơ, sự tò mò khiến tôi mạnh dạn gõ cửa phòng của ông để xem có phải đây là chủ nhân của chiếc xe lăn điện không.
Vì cái tên Việt nên mặc dù người đàn ông trước mặt qủa thật là người đàn ông mà tôi đã từng thấy bên lề đường hằng ngày, tôi giới thiệu với ông ta tôi là y tá trưởng và mở lời chào hỏi bằng tiếng Việt Nam:
- Chào anh Kevin, anh có khỏe không?
Đôi mắt không còn giấu sau làn kính đen nửa mà là đôi mắt xanh biếc với cái nhìn rất thờ ơ, ông ta ngạo mạn trả lời:
- Nằm một chỗ như thế này thì làm sao khỏe được. Tôi ngạc nhiên khi nghe câu trả lời hằn học bằng tiếng Việt khá rõ ràng của ông ta.
- Xin lỗi anh nghe, đáng lẽ phải hỏi là anh có cần gì không thì mới phải.
Đôi mắt xanh bây giờ không nhìn tôi mà nhìn chăm lên trần nhà:
- Lỗi phải chi bà, mà bà có cần gì không?
Lại là lời thách thức. Tôi từ tốn trả lời:
- Tôi tưởng anh người Việt Nam nên chỉ muốn vào thăm thôi.
Ông ta nhìn tôi châm biếm:
- Như vậy là bà chỉ thăm viếng người Việt Nam thôi sao? Tôi người Mỹ nhưng nhờ có tên Việt, may qúa mới được bà vào thăm.
Tôi vẫn điềm đạm:
- Nếu có dịp ai tôi cũng thăm cả nhưng có những người Việt Nam không thông thạo Anh ngữ thì họ là những người được tôi ưu đãi giúp đỡ trước tiên.
Kevin bắt đầu dịu giọng:
- Bà giúp được những gì?
Tôi nói với ông ta là tôi thường thông dịch cho những người Việt Nam nếu cần và vì đây là nhà thương công giáo nên chỉ có mấy bà soeur vào thăm mỗi ngày.
Nếu những người đạo Phật muốn cầu an thì tôi có thể liên lạc với thầy ở chùa đến an ủi, cầu an cho họ. Đôi mắt xanh của Kevin không dưng sáng lên và tia nhìn của ông trở nên thân thiện:
- Bà hay đi chùa phải không? Tôi cũng đạo Phật.
Tôi ngạc nhiên đến tột cùng.
Cuộc đàm thoại với người đàn ông Mỹ có cái tên Việt này bắt đầu kỳ thú. Có lẽ bắt gặp cái nhìn nghi ngờ của tôi nên Kevin đưa tay vào cổ áo lôi ra một sợi giây chuyền vàng với cái tượng Phật Quan Thế Âm Bồ Tát bằng cẩm thạch rồi giọng buồn kể:
- Vợ tôi tặng cho tôi sợi dây chuyền này khi chúng tôi mới lấy nhau...
Rồi bỗng dưng Kevin ngưng kể, đôi mắt nhắm lại và lắc đầu:
- Chuyện tôi buồn lắm, lúc khác nói chuyện nữa nghe bà.
Tôi biết Kevin không muốn tiếp tục và vừa lúc đó người physical therapist đến phòng để chửa trị vết lở cho ông.
Nhìn cái máy Whirl Pool kềng càng và cái giường khác biệt dành cho những bệnh nhân với vết thương lở nặng, tôi mới hiểu tại sao ban nãy ông y tá bảo là mỗi lần chữa trị vết thương không có chỗ xoay xở trong căn phòng chật hẹp.
Tôi cáo từ Kevin, cho số điện thoại và bảo nếu cần gì thì cứ gọi thẳng cho tôi.
Ba ngày kế tiếp tôi phải đi học một khóa tu bổ trong nghành nên không vào bệnh viện.
Ngày thứ tư trở lại khi lên đến lầu thứ tám, chiếc xe lăn bằng điện không còn nằm chình ình trước phòng 828 mà nằm khuất sau một cánh cửa ở cuối hành lang.
Cô y tá Karen cho biết là Kevin được đưa xuống Intermediate Care ngày hôm qua vì trong phổi có nước. Tôi lật đật đi xuống lầu ba nơi Kevin đang nằm điều trị.
Mái tóc không còn rối bù mà bây gìờ đã được chải chuốt thẳng dài mướt trên gối. Bộ râu xum xuê cũng được tỉa gọn gàng để lộ khuôn mặt rất dễ coi nhưng phong trần, khắc khổ. Khi tôi bước vào Kevin có vẻ mừng rỡ.
Tôi nhìn thân thể yếu đuối của ông nằm bồng bềnh trên chiếc giường nước (pressure released bed), chưa kịp hỏi han thì mặc dầu kẹt ống Oxygen trên mũi, Kevin cũng gắng đùa, lần này bằng tiếng Anh:
- Tôi được...vinh dự lắm mới được nằm trên cái giường nước này đó bà.
Giọng Kevin không có gì mỉa mai cho nên tôi cũng đùa theo:
- Tại vì anh... đặc biệt...
Thật sự thì khi những người bệnh nhân nhập viện với vết lở khá nặng ăn sâu vào da thịt vì không có đủ khả năng di chuyển nên máu không lưu thông đều, tạo nên áp xuất mạnh gây ra sự lở loét (decubitus) thì chúng tôi phải dùng những chiếc giường nước như thế này để giảm bớt sức ép của mặt giường vào cơ thể với làn da vốn đã rất mỏng manh.
Vì hai bàn chân yếu Kevin phải ngồi trên xe lăn cả ngày, mặc dầu chiếc ghế có lót miếng nệm dày bằng móp như đã nói nhưng vì ngồi một chỗ qúa lâu, sức ép của cả thân thể dồn vào phần xương chậu, cho nên Kevin mới phải nhập viện với vết lở đó
Kevin cười buồn:
- Bà coi đó, cái... bàn tọa của tôi thì lở loétTôi an ủi:
- Anh ráng tịnh dưỡng, năm ba bữa sẽ mạnh lại rồi về nhà...
Tôi nói chưa xong câu thì đã biết mình lỡ lời. Ông bệnh nhân này là người vô gia cư. Dường như đoán được ý nghĩ của tôi, Kevin mệt mỏi thì thào:
- Nhà đâu mà về bà. Tôi sống trên chiếc xe lăn bao năm nay, nhà là những con đường, những bờ bụi... Kevin nói tới đây thì thở dài và có ý như không muốn tâm sự nữa:
- Thôi bà đi làm đi, không dám làm mất thì giờ của bà.
Lần này là lần thứ hai Kevin cố ý tránh kể chuyện riêng tư của chính mình.
Tôi làm việc với bệnh nhân lâu năm và lúc nào cũng tôn trọng sự riêng tư của họ, tôi cũng hiểu là đối với Kevin, sống trang trải một mình ngoài đường, góc xó và va chạm những thực tế hiểm hóc trong đời sống trên lề đường thì ông ta khó có thể tin tưởng ai để tâm sự về cuộc đời mình.
Tôi chào Kevin sau khi chúc ông ta nhiều may mắn. Những ngày kế tiếp tôi không đích thân đến thăm Kevin vì tôi nghĩ sự thăm viếng của tôi chỉ làm phiền ông ta thôi mặc dầu tôi vẫn hoài thắc mắc về cái tên họ Việt Nam của ông.
Tuy nhiên, mỗi ngày tôi vẫn theo dõi tình trạng sức khỏe của Kevin qua điện thoại với những người y tá săn sóc cho Kevin.
Tôi cũng liên lạc với cô Nancy làm về xã hội nhờ cô lo cho Kevin một nơi chốn cư ngụ khi sau khi xuất viện.
Lúc nói chuyện với cô Nancy thì tôi mới khám phá ra Kevin là " khách hàng thường xuyên" của bệnh viện và cũng là người được cô Nancy dành rất nhiều thì gìờ lo lắng cho mỗi khi ông ta nhập viện trong những năm qua.
Cô Nancy cho biết là Kevin rất bướng bỉnh vì cô đã từng lo cho Kevin đi đến ở viện dưỡng lão cũng như đến những nhà dành cho những người tàn tật, nhưng Kevin chỉ ở vài hôm sau đó lại bỏ đi ra sống lang thang trên đường phố trên chiếc xe lăn.
Chính cô Nancy là người xin giấy tờ cho Kevin có được chiếc xe lăn bằng điện để tiện việc di chuyển.
Khí hậu miền Texas tuy nóng nhiều nhưng mùa đông cũng có những ngày lạnh căm xương. Kevin sống dưới những gầm cầu của những con lạch nhỏ. Hôm nào chịu lạnh không thấu thì Kevin xin vào ở trong Salvation Army, nhưng được vài hôm thôi rồi cũng bỏ đi ra ngoài sống vất vưởng đầu đường xó chợ.
Cô Nancy cho tôi hay là Kevin đã và đang trải qua những khủng khoảng tinh thần sau khi rời quân ngũ (post traumatic stress), cho nên tính tình đôi lúc bất bình thường.
Một tuần sau đó thì cô y tá gọi cho tôi hay là Kevin đã đỡ nhiều và đã được đưa trở về lại lầu tám. Kevin có nhắn lại là ông ta muốn gặp tôi. Tôi trở lên thăm và lần này thấy ông ta gầy guộc hẳn đi.
Sau khi chào hỏi qua loa, Kevin ngập ngừng:
- Có một chuyện làm phiền bà...
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)