Tôi nghĩ như vậy biết có đúng không, nhưng sao lần này người đi, dẫu không biết thở dài, tôi vẫn thấy lòng mình trống trải, buồn mênh mang.
Đã có bao nhiêu người đến đây, sống trong căn phố này, từ lúc tôi còn trẻ lắm. Khác với loài người, tôi sinh ra đã đẹp, óng ả ngay từ lúc vào đời. Thời gian trôi đi, tuổi đời chồng chất lên, tôi cứ theo đó mà cũ kỹ .
Tôi không biết đọc biết viết đâu, thậm chí cũng không biết thay đổi thế đứng thế nằm cho thoải mái, nhưng tôi chuyên chở trong lòng bao nỗi buồn vui, từ ngày này qua ngày nọ, năm này qua năm khác.
Tôi biết được sự vui buồn qua tiếng cười lúc đời vui, tiếng khóc lúc đời buồn, và tôi đã chứng kiến cái mà người ta gọi là “thế thái nhân tình” nơi những con người từng đến đây với tôi, vì tôi là một căn phố cũ.
Năm nay tôi đã ba mươi tuổi, tuổi thành đạt của người đàn ông và chín mùi của người đàn bà, riêng tôi với tuổi đời ấy, tôi già đi và cũ kỹ trông thấy, đời chất chồng bao nhiêu kỷ niệm. Có những người đến, có những người đi, có người đối đãi với tôi bằng sự trân trọng, có kẻ cũng cư xử chẳng ra gì. Điều ấy tôi biết được qua cách sống của họ, gặp người có tư cách thì dẫu tôi không là của họ, họ vẫn trang trọng khi trang điểm cho tôi vài bức tranh tươi mát, còn kẻ thô bỉ thì họ xem tôi như kẻ ăn sương, gắn vào mình đủ thứ bẩn thỉu, diêm dúa.
Thỉnh thoảng, khi có người bỏ đi, ông chủ như thương cho sự tàn tạ, buồn bã của tôi, ông quét cho tôi lớp sơn mới. Như người đàn bà nhan sắc đã tàn phai, được phết lên mấy lượt phấn, da thịt bỗng nõn nà hẳn ra, ngó không kỹ, tưởng vẫn còn xuân sắc lắm.
Dạo tôi vừa sinh ra, hàng cây xồi ven đường cũng còn bé xíu, chân cẳng chúng mốc cời và khẳng khiu như ống chân trẻ đói ăn. Vậy mà thời gian qua, chúng lớn nhanh như thổi, nhờ mưa nắng của trời. Có những điều lạ lùng và nghịch lý không hiểu nổi, cũng nắng mưa ấy chúng nó càng ngày càng xum xuê, tươi tốt, còn tôi lại càng cũ kỹ.
Lũ cây sồi càng lớn thì tôi càng nhỏ bé lại, hèn gì tôi thấy người càng già họ cũng từ từ nhỏ đi, tính tình cũng bất thường như trẻ con, những xốc nổi háo thắng tuổi trẻ cũng cứ thế mà tiêu ma, cho nên khi thấy ai già mà tính tình còn hung hăng, tôi ngạc nhiên lắm. Lúc đã bước qua tuổi “tri thiên mệnh”, càng sống càng thấy đời chẳng giữ lại được gì, đôi khi nhìn thấy những chuyến xe tang bật đèn đi hàng dài trên con đường dẫn ra nghĩa địa, người ta bỗng ít nói hẳn đi, có một điều gì suy nghĩ làm cho người ta thường thích nghe nhiều hơn nói, và chỉ tủm tỉm cười khi thấy đời có nhiều điều trái tai gai mắt.
Dưới những tàn lá xanh của rặng xồi ven đường, ngọn đèn đường vàng vọt, hắt hiu đã làm cho căn phố cũ lúc nào cũng buồn buồn, rất thích hợp cho những tâm hồn yên tĩnh pha một chút lãng mạn, khi nghe tiếng mưa tí tách rơi xuống khoảng sân lát gạch màu đỏ. Ngày xưa, những viên gạch ấy có màu đỏ thẫm, và hàng hiên cũng sơn một lớp sơn thẫm như màu gạch. Bây giờ cả hai cùng nhạt phấn phai son, xậm xuống vì mưa nắng. Chúng cũng giống như tôi, đứng lại một chỗ trong khi bao thứ khác tiến lên, bởi vậy tôi mới được gọi là căn phố cũ.
Những năm tôi còn trẻ, dạo ấy là thời mà thành phố còn đầy những rừng cây, con người còn hiền lành như chim, tôi cũng khá là xinh đẹp và đã có không ít người phải chật vật lắm mới được sống với tôi. Đất nước này rất lạ, họ có một nền văn minh du mục, giống như ø những người Bô Hê Miên, thường thay đổi chỗ ở luôn luôn.
Tính họ ít gắn bó với cái gì lâu dài, bởi họ rất thực tế, khi kinh tế phát triển nơi nào là chỉ một sáng một chiều họ đã cuốn gói ra đi, cho nên với họ tôi chả có kỷ niệm gì ráo.
Người ta đến vì nhu cầu cần một chỗ ở, người ta đi vì đến lúc phải đi.
Bỏ một số tiền thuê mướn, họ có thể hành hạ tôi như ngày xưa, ông nhà giàu có tiền mua hầu thiếp, chuyện tình cảm ái ân cũng chỉ là để thỏa mãn cho món tiền họ bỏ ra, cho nên với những hạng đó, tôi không nhớ nổi, và cũng chẳng nhớ làm gì.Với thứ tình nghĩa bạc bẽo đó, tôi dửng dưng nhìn họ đến họ đi, chẳng giữ lại chút kỷ niệm nào. Tuy nhiên, dù không phải là người, tôi vẫn rất cần sự trân trọng của những con người có văn hóa.
Chuyện tôi kể ra đây chỉ vì có một lần, tôi bị một lũ người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm, những chân cẳng ấy mỗi lần nhảy nhót lên theo điệu nhạc, tất cả người tôi như bị rung rinh và tức thở, mấy vách tường đã cũ dường như muốn nứt ra vì tiếng nhạc rậm rật.
Đến bây giờ tôi vẫn còn ê ẩm vì những dấu đinh họ đóng vào người tôi, để treo lên những bức tranh hở hang, quần áo nghèo nàn và bảo đó là nghệ thuật thứ bảy. Xấu hổ chết đi được, bởi vậy khi phải nhìn những con mắt hau háu ấy dán vào những bức tranh nghệ thuật bẩn thỉu, tôi cứ rợn cả người. Sau này, lớp người ấy ra đi, những bức tranh tục tĩu được xé bỏ, tôi mới thấy mình nhẹ nhõm một chút. Có lẽ tôi đã già, lại hơi bảo thủ, cho nên vẫn thích sống im lặng với những tâm hồn yên tĩnh, để nghe trong không gian bàng bạc một nỗi buồn riêng, thú vị lắm.
Sau những tháng năm dài phục vụ con người, lại thêm kinh tế ngày một khó khăn, biết tôi ốm đau, tàn tạ nhưng ông chủ tôi là người thuộc giống dân cũng rất thực tế, tính toán là đến lúc nào đó phải thay đổi, phải bỏ đi là họ bỏ, không ngậm ngùi nuối tiếc.
Đấy là bản sắc của một dân tộc có một lịch sử rất mới mẻ, cho nên họ luôn luôn hướng về phía trước, và những gì họ có, nếu cần phải quên, họ không nắm nuối. May mắn thay, phải nói là may mắn cho nên tôi còn tồn tại đến bây giờ, chứ không giờ này cũng đã trở thành tro bụi cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Dạo ấy có một đám di dân từ phương xa đến, chả biết họ ở đâu, nghe nói tận bên kia bờ Đại dương, mà nhìn trên bản đồ, tôi thấy nó cong cong một hình vẽ dài và hẹp.
Đất này là miền đất hứa của dân tứ xứ, tôi biết thế là vì từng này tuổi, tiếp cận gần gũi với đủ thứ loại người, tôi công nhận chưa nơi nào con người có nhiều tự do bằng ở đây, có nhiều cơ hội bằng ở đây. Nếu cứ chịu khó thì đúng nơi này mang cơ hội đến cho mọi người, nếu họ biết mở cửa mà bước vào.
Ông chủ tôi gặp dịp may, tống khứ những thứ cũ kỹ cho đám di dân mới với một giá rẻ mạt. Khởi đầu thì cũng trong bọn họ, có những người đi trước rất hiểu bản chất người phương Nam, quan niệm rằng “có an cư mới lạc nghiệp”, cho nên họ đánh trúng tâm lý của người mới tới, thế là bao nhiêu căn phố cũ kỹ chúng tôi, được sơn phết sửa chữa vội vàng, nhìn hào nhoáng mới mẻ khi tôi và chúng bạn được khoác vào mình bộ xiêm y mới.
Với những cái lưỡi không xương nhiều đường lắc léo, trong giây phút chúng tôi biến thành những lâu đài thần tiên của đám dân nghèo.
Tôi lại một lần nữa có cơ hội
được sống thêm, mang hạnh phúc đến cho những con người, mà sức chịu
đựng và lòng kiên nhẫn của họ, cũng như thứ tình cảm gắn bó với “cái nhà
là nhà của ta”, đã làm tôi thổn thức mãi khi phải chia ly
Bây
giờ cũng cần phải kể lại câu chuyện cũ, vì rõ ràng không thể tách rời
khỏi quá khứ, nếu tôi muốn bày tỏ cho mọi người hiểu tại sao tôi lại yêu
mến người chủ mới. Thời gian ấy tôi tang thương như một nàng ca kỹ hết
thời, son phấn đã nhạt màu thời gian, trên mặt chỉ còn là những dấu đinh
lỗ chỗ và chiếc cửa kính thì mỗi lần kéo, lại rít lên những tiếng ken
két ghê tai. Thế giới tôi đang sống lúc ấy, con người xung quanh tôi lại không muốn gắn bó một điều gì lâu dài, nếu là người thì tôi đã có một nơi chốn để đến, đó là “nursing home” hay là nhà chờ chết, nhưng vì là nhà cho nên tôi cứ tự nhiên xụm xuống như mọi thứ mà thôi.
Đám người cũ ở đất này, hầu như chỉ thích khai phá những gì mới mẻ, thay đổi luôn luôn, cho nên họ tiến bộ phía bên ngoài mà lại đánh mất cái bên trong.
Còn đám người mới đến lại là những con người khá lãng mạn, họ sống bằng tình cảm, gắn bó với cái cũ mà nếu phải tách rời dĩ vãng, họ như đánh mất một nửa tâm hồn. Điều này không biết sai hay đúng, riêng tôi có lẽ vì cũng mang mặc cảm già nua tuổi tác, tôi vẫn thích thú sự trân trọng cái cũ, nếu đó là những điều đẹp đẽ.
Người chủ mới đến với tôi đơn giản chỉ vì tôi vừa vặn trong tầm tay của họ, và hình như họ có sẵn quan niệm thích làm chủ hẳn cái gì mà họ nắm bắt được.
Dẫu rằng ngó quanh thì xứ sở này không phải của họ, đất nước này dù là xứ sở của mật và sữa, cũng không làm họ quên đi nỗi nhớ quê hương.
Tôi cũ kỹ thật nhưng qua những tay chuyên nghiệp về sửa sang nhà cửa, đối với người chủ mới kể cũng khá là tiện nghi. Rồi khi tôi thuộc hẳn về họ, tôi mới thấy còn nhiều thứ tình gắn bó với họ mạnh mẽ lắm, bởi nền tảng là sau những cam khổ của nơi họ sinh ra, họ tự nhiên có cái tính toán phải đề phòng những bất trắc.
Nhờ vậy, từ những cơ cực ban đầu, họ đã có nền tảng để đầu tư những cái lớn trong tương lai.
Trước tiên, bộ mặt tôi được đổi sắc theo cách nhìn của họ, nhờ vậy tôi mang dáng dấp một tiểu thư phương Đông, màu sắc mùi vị phương Đông.
Mỗi lần ngày giỗ ngày Tết, người tôi thơm lừng mùi trầm nhang, những bức sơn mài cẩn ốc treo trên tường như óng ánh thêm khi ánh đèn bật sáng, khắp người tôi bàng bạc một thứ không khí thơm tho và ấm áp, tôi chưa bao giờ có cảm giác dễ chịu như thế. Có một điều kỳ diệu giữa con người và những vật vô tri giác, như đồng loạt khoác vào nhau cái quấn quýt của một thế giới có linh hồn, và tôi đã chìm ngập trong niềm rạo rực êm ái đó.
Ba mươi tuổi tôi đã trải qua lắm dãi dầu mưa nắng. Mùa Xuân, đất trời còn mát mẻ và cây cỏ xanh tươi, tôi còn cảm thấy dễ chịu đôi chút.
Qua đến mùa hè mới thật kinh khủng, nắng gì mà nóng dễ sợ, cứ phơi người ra với cái nóng hằng trăm độ của mùa hè ròng rã suốt mấy tháng trời, nếu da thịt mềm mại như con người tôi đã chết từ lâu.
Rồi tiếp theo những mùa Đông giá lạnh, các khung gỗ trong người tôi co mình lại vì lạnh.
Tôi thấu hiểu cảnh cơ hàn của những kẻ không nhà, vì thế cho nên khi người chủ mới tới, tôi cũng lờ mờ hiểu thế nào, tại sao mà có những người vào mùa đông lại có thể thốt lên những điều áo não: “... có ai thấu tình cô lữ đêm đông không nhà...”.
Suốt một đời làm nhà, tôi đã nhìn biết bao khuôn mặt đến rồi đi, mỗi người, mỗi dân tộc có một bản sắc riêng.
Họ lãnh đạm thì tôi cũng nhìn lại bằng cái nhìn lạt lẽo, là vì không có tình trong đó thì làm sao yêu mến nhau được.
Có nhiều người đến, họï không cho tôi cái cảm giác là một nơi chốn thân quen của họ, vì tôi chỉ là một phương tiện đáp ứng một nhu cầu, sau đó thì họ quên, quên phứt.
Ở đời, những tấm lòng bạc bẽo ấy khá nhiều, thật xấu hổ khi họ được sinh ra làm người, tôi tưởng là họ có trí óc, có tâm hồn thì chắc hẳn phần sâu sắc phải hơn hẳn bọn tôi, hóa ra không phải vậy.
Những tháng ngày sau đó, hình như sự truyền đạt của một tấm lòng cho một tấm lòng, của con tim cho một con tim, tôi dần dần cũng biết chiêm ngưỡng những hạnh phúc đơn sơ mà mình gặp, mình thấy.
Xuyên qua lớp cửa kính trong suốt, tôi nhìn thấy đôi chim sáo ríu rít vào ra chiếc tổ ấm trên mái hiên, cây thông xòe ra những tán lá xanh biếc, và cây kim quất nở những chiếc hoa trắng muốt, tỏa mùi thơm bát ngát.
Đôi chim sáo trên mái hiên, cây thông thẳng người với dáng đứng quân tử, cây quất nở hoa mỗi độ xuân về, dường như tất cả những thứ ấy hòa hợp vào nhau để trở thành một luồng sinh khí thổi hơi vào căn phố cũ, và cả con người nữa. Đó là cái hồn của nơi chốn, nó làm tôi sung sướng ngập tràn hạnh phúc.
Đâu phải tất cả những căn phố như tôi đều được hưởng niềm vui êm ái đó. Tôi biết có nhiều lâu đài tráng lệ, được tô điểm và trang hoàng bằng những thứ quý nhất của trần gian, vậy mà sao nó vẫn lạnh lẽo? Có phải chăng nó không có trái tim, vì không tìm đâu ra sợi giây cảm thông giữa con người và nơi chốn.
Càng sống lâu với những con người này, tôi càng cảm mến họ, vì họ là những người ít thích thay đổi, bởi vì họ thích gắn bó với quá khứ và kỷ niệm, cho nên tôi cũng thật tiếc khi họ bỏ lỡ nhiều cơ hội để tiến thân.
Sống nhiều cho dĩ vãng, đắm chìm trong những ảo ảnh mù xa cho nên có lúc quên, hay cố tình không nắm bắt lấy cái mới mẻ trong hiện tại.
Tôi đi đến kết luận này, và thực sự tiếc vì sao mà dân tộc họ không tiến mạnh lên được, nhưng vốn bản chất dân tộc họ đã có một nền văn minh định cư, sống có làng có xóm, có sự gắn bó với quá khứ, dẫu đôi khi quá khứ chỉ là những điều buồn rầu, mà họ cũng khó rứt ra được.
Cũng từ một góc trong căn phố cũ, tôi nhìn thấy những giọt mưa rớt xuống sân nhà, gõ những phím đàn trầm buồn trên mái tôn cũ kỹ.
Những chiếc bong bóng nước phập phồng rồi vỡ ra như vỡ một nỗi buồn, tôi đọc được trong lòng người nỗi u uẩn đó.
Ở đây những đêm mưa, ánh đèn rờn rợn xanh xao dưới hàng cây sồi tối thẫm, tôi nghe như âm vang một bài thơ, một đoản khúc, một giai điệu trầm lắng của tiếng nhạc trời mà chắc là chưa có một thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ nào ghi hết được. Tôi đã có sẵn một nỗi buồn già nua, cơn mưa đêm trong đôi mắt u uẩn chất chứa những nhớ nhung xa vời ấy càng làm tôi rùng mình vì cô đơn.
Sự cô đơn thật kỳ quặc, như người ngồi một mình trong đêm khuya ngó bóng mình trên vách, lại tưởng rằng đã gặp bạn tri âm:“Chập chờn giữa những tỉnh mê,
Bóng mình trên vách, bốn bề quạnh hiu.”
Từ ngày ấy đến nay, tôi bị ảnh hưởng chút lãng mạn phương Đông, để tưởng tượng ra rằng dẫu là hoa cỏ cũng có linh hồn. Nghe qua thì họ bảo tôi bịa đặt, nhưng sự thật vẫn là sự thật, cây cỏ cũng buồn tủi như người, cũng biết đau khổ khi nghĩ đến lúc bị bỏ rơi, và cây kim quất đã thì thào bảo nhau cố đơm hoa khi mùa Xuân tới, khiến mùa Xuân năm đó khoảng không gian quanh chúng tôi như có hơi thở thơm tho của hoa cỏ, và vì thế mà mùa Xuân óng ả hơn.
Nếu bảo rằng qua một thời gian dài chung sống với những người ấy, để đánh giá cả một dân tộc thì e rằng tôi có cái nhìn quá rộng, nhưng thật ra họ cũng không hoàn toàn là những người chỉ sống cho dĩ vãng mà quên nhìn đến tương lai.
Điều ấy khiến đám trẻ bực mình, và cho họ là kẻ chậm tiến, bảo thủ. Giữa những khác biệt đó, tôi chỉ khách quan cho rằng phải dung hòa với nhau, như cô gái đẹp biết lúc nào nên mặc quần áo màu gì, cho hợp với tính cách của mình, thì sự khác biệt này cũng đơn giản vậy thôi.
Phần tinh thần thì đã vậy, còn ngoại cảnh thì sao?
Dường như ở quê hương họ, nơi chốn họ sinh ra bao phủ một màu xanh của cây cỏ, cho nên nơi họ sống, họ cũng muốn tất cả đều mang một màu xanh, như mang phần đời của họ nơi quê nhà.
Xung quanh căn phố cũ chỉ có những khoảng đất nho nhỏ, một hôm tôi ngạc nhiên nhìn thấy cây ớt đỏ, nhúm rau xanh, một cây chanh, vài bụi hành và những cây cải non mươn mướt.
Họ trồng cho vui chứ không phải vì nhu cầu ăn uống, nhưng dùng nó để chia xẻ với những người quen biết, và sự cho đi là dường như có nhận lại niềm vui, có lẽ là bản chất của dân tộc họ.
Tôi đã ngạc nhiên khi một sớm mai trời còn đầy sương muối, bỗng tiếng gà gáy ở đâu vẳng lại đã làm họ xúc động, bên ly trà nóng sáng hôm đó, họ lại khoan khoái và thú vị hơn mọi ngày.
Tôi thấy họ lắng nghe, đôi mắt long lanh. Tiếng gà gáy như sống dậy cả một trời quá khứ, làm đậm đà thêm chén trà trong sương sớm, và ngoài sân cây mẫu đơn cũng đang khoe những nụ hoa xinh.
Một người nói: “Lâu lắm không nghe tiếng gà gáy...”
Đúng là một dân tộc lãng mạn, nhiều tình cảm, khó hiểu và kỳ bí. Tiếng gà gáy, bông hoa mẫu đơn nở trong chiếc chậu sứ, những con chim sẻ nhảy nhót tìm mồi trên khoảng sân cỏ ướt, chắc chắn đã gói ghém hồn quê trong đó. Tôi chia xẻ và trân trọng nỗi ngậm ngùi của họ, những kẻ xa quê, và hiểu sao khi họ ngồi bên nhau, nhắc nhau nhớ, miệng họ cười mà mắt họ lại ướt.
Vậy mà có một ngày người cũng bỏ tôi ra đi, mang theo tất cả hồn của căn phố cũ, tôi buồn biết bao nhiêu.
Từ đây, những sáng sớm mù sương.
Những hoàng hôn cơn gió chiều thổi những chiếc lá sồi khô lăn xuống cuối dốc.
Những đêm mưa trong căn phòng ấm nhìn ra mặt đường khuya ướt át, những giọt mưa vẽ nhòe nhoẹt trên mặt cửa kính và hàng cây rũ rượi ven đường, có tiếng đàn trầm réo rắt thở dài từ nhà hàng xóm bay sang, lòng tôi chùng xuống một nỗi nhớ không nguôi.
Hơn tám năm dài tôi đã quen hơi người như quen hơi tình nhân. Tôi rộn rã khi người vui, tôi ủ rủ khi người buồn. Chưa bao giờ tôi lại có cảm nhận sâu sắc như thế, khi thật sự hiểu rằng tại sao người ta lại phải biết trân quý một tâm hồn, một trái tim.
Người đi thật rồi sao? Tôi nghe lòng trống rỗng khi còn trơ lại một mình với những bức tường trắng toát, và nỗi cô đơn của một căn phố cũ.
~~~~~Nguyên Nhung.~~~~~
@ tks t/g .
Camly cùng tâm trạng - đồng cảm với t/g Ng.Nhung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét