Trang

Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012

CHÚT ƠN NGHĨA CUỐI ÐỜI


 Một người chẳng may rơi xuống giếng sâu, có người trông thấy vội hô hoán lên: “Có người rơi xuống giếng!” ” Xóm giềng kẻ đem thang, người đem giây xúm lại cố cứu người kia lên khỏi miệng giếng.
 Ra khỏi chỗ hiểm nghèo, thoát chết, người kia chỉ thấy những người chung quanh đang cầm các dụng cụ để cấp cứu, mà không biết đến người đầu tiên đã phát giác ra việc y bị rơi xuống giếng sâu, thậm chí y chẳng phản ứng gì chứng tỏ y vừa thoát khỏi cảnh hiểm nghèo, được an toàn rồi, y cắm đầu đi thẳng. 
Gần đây, luận về một sự giúp đỡ trong quá khứ cho những người tù chính trị, người ta đã phân tích, đem sợi tóc chẻ làm tư để phủ nhận công ơn những ai đã giúp đỡ mình, dù ít dù nhiều, dù bằng cách này hay cách khác.
  “Có người phải mang ơn hay tránh mặc cảm là kẻ vô ơn, người ta phải tự lừa dối cả với chính mình bằng cách vẽ lại hình ảnh người ơn một cách xấu xa, bôi xấu đến mức tàn tệ. Khi xúc động với lòng biết ơn, người ta vẽ nên hình ảnh bà Tiên nhiệm mầu chan chứa lòng bác ái, khi bất bình người ta sẵn sàng tô vẽ hình ảnh ấy thành một mụ phù thủy quái ác. 
Thật ra, chúng ta không phải nhất thiết làm những chuyện như vậy, vì vào những ngày xa xưa ấy, những người bỏ công sức, bằng cách này hay cách khác để tìm cách cứu vớt những người lâm nạn, không có ai mong mỏi sẽ có một ngày nào đó được đền đáp lại, dù chỉ là một câu cám ơn đầu lưỡi.
Tôi còn nhớ chuyện có người cho tôi một cục kẹo nhỏ khoảng ba mươi năm về trước. 
Sau ba năm ở trại Cẩm Nhân, Yên Bái, vào giữa năm 1978, từ dưới sự quản lý của bộ đội Việt Cộng, nhóm tù miền Nam của tôi được chuyển về Bắc Thái, đặt dưới sự canh gác của bọn công an áo vàng.
 Mấy năm đầu tiên trên đất Việt Bắc, giữa núi rừng lam sơn chương khí, chúng tôi tưởng chừng như đã sức tàn lực kiệt, nhưng về với những trại giam công an, giữa bốn bức tường cao với những vọng gác, giây kẽm gai, ngày làm lụng vất vả như trâu cày, tối về còn bị ngồi lên đồng, kiểm thảo, phê bình, với cơn rét đậm cùng với cái bụng đói triền miên, những người tù miền Nam bắt đầu thấy tuyệt vọng khi nghĩ đến một ngày về. 
Thời gian ấy, một hạt muối cũng thiếu, đừng nói gì đến hạt đường, và cả bọn như những thây người xanh xao, nhợt nhạt, những con ma đói dật dờ.
Giữa lúc ấy, một người bạn cùng đội tù có vợ ra thăm nuôi. Ðây là một tin vui cho cả trại tù, vì như thế thì có thể một chiến dịch cho gia đình tù thăm nuôi để cứu sống bọn tù, nhưng không phải ai cũng được hưởng thứ ân huệ ấy, vì hoàn cảnh mỗi người mỗi khác.
 Chiều hôm ấy, trong giờ ăn tối, với lưng chén bánh canh bột mì lỏng bỏng như mọi ngày, người bạn tù hạnh phúc mới được thăm nuôi, phân phát cho anh em trong đội tù, mỗi người một chiếc kẹo. 
Chiếc kẹo màu nâu đen, nhỏ bằng đầu ngón tay út, được bọc bằng một mảnh giấy trong. 
Tôi cẩn thận giữ nó trong túi áo, sau khi dùng xong phần ăn, rửa chén muổng, súc miệng rồi mới tìm một góc hè, ngồi xuống để làm cái công việc trang trọng là thưởng thức một cục kẹo nhỏ sau gần ba năm tù đói khát. 
Viên kẹo ngọt từ từ tan trong miệng đưa chất ngọt theo nước bọt xuống cổ họng, như một vài giọt nước rơi xuống trên mảnh đất cát khô cằn.
 Khi viên kẹo tan hết trong miệng, thì nước mắt tôi cũng lưng tròng. 
Nghĩ đến cảnh ngộ lúc bấy giờ, không thể nào tôi ngăn được chút ý nghĩ xót xa về tấm thân tù đày phiêu bạt.
 Ba mươi năm rồi, từ buổi chiều hôm ấy ở trại tù Bắc Thái tôi vẫn còn nhớ đến viên kẹo nhỏ như mới hôm qua, cũng như không thể quên tên người bạn đã cho tôi viên kẹo: Tống Hữu Kinh.
 Bất cứ người bạn tù nào khi có quà thăm nuôi chắc chắn không thể nhớ rằng đã cho ai một cục kẹo vào một trường hợp như thế. Người cho không thể nhớ, nhưng người nhận thì khó quên.
 Bây giờ trên đất nước này, tôi có thể mua cả một tấn đường hay một xe tải kẹo bánh, nhưng tôi không thể dùng bất cứ thứ của cải nào để trả ơn lại cho người bạn tù năm xưa.
 Nhiều người quan niệm rằng không cần phải mang ơn người chỉ cho ta một cục kẹo, chỉ vì lý do cái vật ấy quá nhỏ.Tôi nghĩ không một ai trong chúng tôi, một người Việt Nam đã bỏ xứ ra đi vì chế độ Cộng Sản, về thăm thủ đô Hoa Thịnh Ðốn của nước Mỹ mà không bỏ chút thời giờ ghé thăm “Bức Tường Ðá Ðen” khắc tên 58,000 người chiến binh Hoa Kỳ đã hy sinh nơi chiến trường xa xôi ấy, nơi vùng đất mà chúng tôi đã từ đó ra đi vì cuộc chiến bất thành, nơi mà “những kẻ xấu đã thắng trận” (the wrong guys won!) 
Tôi không nhớ rõ là tôi đã đến đây bao nhiêu lần, mỗi lần như thế nhìn hình ảnh của chính mình phản chiếu trong bức tường đá đen, chi chít những dòng tên họ xa lạ, tôi lại thấy ngậm ngùi.
                                                                                          HUY PHƯƠNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét