Tây
ba lô dưới mắt người Việt ở trong nước là dân nghèo, nên giới con buôn
không thèm chào mời. Các phi công người Pháp làm cho hãng máy bay
Vietnam Airlines khôn lắm, khi ra phố cũng quần cụt, xách đeo lưng như
vậy họ sẽ được yên thân. Từ một xứ văn minh, người ta đã hưởng đủ thứ
tiện nghi trên đời, cần gì mà phải xa xỉ một nơi mà người dân chưa rành
luật đi đường.
Có những nhóm người Âu Châu, vai đeo ba lô đi tận vào
thôn quê hoang vắng, chong lều để tìm cảm khoái lạ, hay là muốn tìm hiểu
một cái gì đó!
Một cô gái địa phương chỉ nhóm người vừa đi ngang qua
nói với tôi: “Tây ba lô nghèo!” Khi nghe tôi giải thích cô gái “A” một
tiếng ý là như đã hiểu ra. Người Việt mình nhìn khách du lịch ba lô kiểu
này coi thường lắm! Người đời cũng lạ! Cái lớp bề ngoài đôi khi cũng
dễ đánh lừa được người ta.
Ai thích làm đại gia áo lượt, quần là sẽ được
“Việt gian” o bế tận tình và“ chém” đẹp vô tội vạ biết chừng nào !Tôi
ngồi bên cạnh người vá giày ở trên đường Nguyễn Huệ chờ làm đóng lại
cái đế giày với giá 15.000 đồng một đôi (khoảng $1 đô) thấy rẻ, tôi đóng
hết cả ba đôi vừa mới mua. Trong khi chờ đợi tôi hỏi chuyện anh thợ
giày: “ Làm nghề này lâu chưa anh ? ” “ Trên hai mươi lăm năm rồi cô” “ Có bị đóng thuế không ?” “ Nghề làm chui mà thuế gì cô” “ Làm vậy mà gọi là chui sao ?” “ Khi nào thấy “mấy ổng” tụi tôi ôm đồ chạy thấy mồ đó chớ !” “ Chỗ làm của anh có người tới dành thì sao ?” “ Thì mình năn nỉ “họ” trả lại chỗ cho mìnhï, vảû lại họ biết chỗ này của mình rồi “nó” không chiếm đâu”. Tôi
nhìn anh thợ giày trẻ tuổi đang ngồi phía trước, có khuôn mặt khôi ngô,
trên tóc có nhuộm vài sợi tóc màu vàng, rất hợp thời trang đang làm mấy
chiếc giày của tôi một cách thong thả, không có gì là vội vàng, mặc dầu
bên cạnh còn nguyên một xách giầy chưa làm xong. Cứ ba mươi phút có
khách đưa giày đến làm. Tôi nhìn người đánh giày trẻ tuổi rồi quay sang
hỏi anh đánh giày lớn tuổi: “Đệ tử của anh đó hả ?” “ Lúc trước là đệ tử, bây giờ tôi phải trả lương cho nó” “Bao nhiêu mỗi tháng ?” “ Một trăm ngàn đồng mỗi ngày” (khoảng $5 đô ) “ Anh ngồi đây thấy có gì lạ không ?” “ Lạ chứ !” “Lạ như thế nào?” “Lạ
là ...à mà sao cô hỏi kỷ quá vậy, nhà báo hả ? Thôi, tôi không nói đâu,
lần trước có một anh đến hỏi rồi đem chuyện tôi nói lên báo, mà còn
đăng hình tôi nữa. Thôi tôi không nói đâu ...
Đang
nói chuyện có người đẩy xe bán nước dừa đi ngang qua, người đi đường
xúm lại mua, trời nóng quá mà, tôi cũng đến mua một trái giá với giá
4.000 đồng. Bỗng một người đàn bà to lớn, mặt rất dữ tợn, từ trong quán
bước ra, đầu đội nón, mặc bộ đồ bông đỏ, chống nạnh la lớn: “ Ê ! thằng kia ! *** mầy bán dừa phá giá phải không ? Anh bán dừa vừa thối tiền cho khách vừa trả lời: “ Bốn ngàn một trái mà phá giá ?
bán bốn ngàn cũng như chị .. .” Người đàn bà trợn mắt hét : “A, dừa ở đây tao bán năm ngàn, mày bán bốn ngàn mà nói không phá giá hả ? Mày còn đứng đó tao đập bể nát xe bây giờ.” Thấy
người đàn bà hung tợn chưởi anh bán đừa, mấy người khách không dám mua
họ liền bỏ đi. Người bán dừa cũng vội đẩy xe đi một mạch. Tôi hỏi nhỏ
anh làm giày: “ Có phải chỗ này của bà ta không ?” “ Hỏng có ! Người ta bán ngoài đường, ai muốn mua thì mua ! Mấy bà ở chợ dữ như chằng cô ơi ! Đang
nói chuyện thì có khách đến lấy giày, người khách hỏi trả bao nhiêu anh
làm giày nói 5.000 đồng, A! giày của tôi cũng đóng đế giống nhau mà
phải trả 15.000 đồng một đôi, so ra hơn gấp ba lần .. .
Gặp
lại anh bạn cũ của thời thơ ấu, bây giờ là họa sĩ Nguyễn Thiên Chương,
anh trình bày các bìa sách báo ở Sài Gòn, anh đưa tôi đi uống cà phê bên
lề đường trong một góc phố, ít người và xe qua lại.
Tôi không thích
ngồi quán cóc, vì ghế không có chỗ dựa lưng. Ghế thấp thật khó chịu cho
cái bụng vô cùng. Độ mười lăm phút thì nhà thơ Phạm Thiên Thư (tác giả
bài thơ Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, được Phạm Duy phổ thành nhạc) nổi
tiếng trước năm bảy lăm. Nhà thơ bây giờ bị điếc một tai nên nói chuyện
phải nói lớn, hoặc kề sát gần tai. Bây giờ ông hơi lừng khừng, viết một
câu văn không thành, phải có người đọc thì ông viết được.
Nhà thơ Phạm
Thiên Thư mở tiệm cà phê lấy tên Hoa Vàng, tiệm nhỏ nhưng rất xinh, có
bàn ngồi uống cà phê ở trên sân thượng rất trữ tình. Chỗ tôi ngồi uống
cà phê bên lề cũng là của ông.
Ngồi bên này đường nhìn sang bên kia
đường là tiệm cà phê Hoa Vàng. Ông tặng tôi tập thơ Tự Điển Cười dày gần
bằng một gang tay nặng quá chừng. Ông hỏi Nguyễn Thiên Chương viết ký
tặng làm sao ?
Anh Chương đọc, ông ghi lại y chang. Khi tôi chào ông để
ra về ông nói: “Nghe anh Chương nói cô làm thơ tình hay lắm hả ? Đọc vài
câu nghe chơi”.
Tôi kề sát vào tai ông đọc nhỏ (trích bài thơ Yêu Em):Ước em làm nắng thế mưa Để anh khát nước sáng trưa đến chiều .. . Ông
nhà thơ nổi tiếng một thời,vừa nghe xong mấy câu thơ như bị ai thọt
lét, ông hét lớn: “Ui giời ơi, ui giời ơi” rồi cười ré lên khanh khách.
Tôi lại kề sát vào tai ông thủ thỉ: Bây giờ em vui em hát reo cười Đang run rẩy trên làn môi đợi cắn ….
Lại
“ui giời ơi, ui giời ơi”, ông vừa cười ha hả vừa chu cái môi trên hàm
răng hô của ông, trông ngồ ngộ đến tức cười. Tôi cảm thấy hạnh phúc khi
biết ông đã đồng cảm mấy câu thơ trên, và tôi cũng rất may mắn được gặp
một người mà tôi từng ái mộ từ lâu. Ông xuề xòa, tính nết dễ chịu, tôi
càng quý mến thêm, không ngờ gặp ông thật tình cờ, âu trời cũng không
phụ lòng người.
Xin từ giã nhà thơ, ông để lại trong tôi một ngày hạnh
ngộ nhiều kỷ niệm thân thương khó quên. Mấy
ông bạn ở Việt Nam có cái nhìn hơi lập dị, thường đưa tôi đi cà phê ở
quán cóc.
Mấy ông họa sĩ này không hiểu họ nghĩ cái chi mà sáng mô cũng
ngồi trên cái ghế tí tẹo gần sát mặt đất. Xe cộ qua lại hà rầm, ông đi
qua bà đi lại nhìn nhìn, ngó ngó, tôi không thấy tự nhiên tí nào, lần
sau thì tôi từ chối
không ngồi cà phê kiểu này nữa, không như ngồi quán với nhà văn Văn
Quang trong tiệm có máy lạnh, mát mẻ mới thấy khoan khoái trong lòng.
Trời Sài Gòn nóng quá ít ra cũng phải vậy. Văn Quang là nhà văn nổi
tiếng trước năm bảy lăm, có nhiều tác phẩm được làm phim, hiện giờ vẫn
còn viết cho các báo trong nước và ở hải ngọai, ông viết về phóng sự
nhiều hơn. Ông cộng tác với ba tờ báo ở nước ngoài. Một lần khác, ngồi
quán cà phê tình cờ trúng ngay quán cóc con trai họa sĩ Thái Tuấn, Thái
Tuấn hiện cư ngụ tại Pháp không ngờ tôi gặp con trai ông ở đây. Đà
Nẵng là nơi tôi sinh ra và lớn lên, ai ra đi cũng mong có ngày về thăm
lại làng thôn của mình, nhưng bây giờ làng xưa lối cũ không còn nữa. Tôi
ngạc nhiên làng xưa bây giờ hoàn toàn đổi khác. Ngôi làng có ruộng đồng
cây xanh lá, lưa thưa vài mái nhà bây giờ biến thành một khu nhà xây
cất chằng chịt theo từng lô đất có giới hạn, không có nhà nào có dư đất
để làm vườn.
Những ngôi nhà cũ đã giải tỏa, nhà của ba mẹ tôi cũng đã bị
giải tỏa, và dọn đến ở nơi khác trên một miếng đất nhỏ xíu. Nhà nào bề
ngang cũng năm thước đất, bề dài hai mươi lăm thước.
Đất ít thì xây cao
lên ba, bốn tầng (nhìn như cái hộp).Chị em tôi đi thăm thắng
cảnh Ngũ Hành Sơn ở Non Nước, bây giờ lên núi phải mua vé. Tất cả những
gì như chùa chiền, hang động ở đây vẫn còn nguyên theo năm tháng của bụi
mù. Những bức tượng thật đẹp do những bàn tay nghệ nhân điêu khắc thật
tinh vi sắc sảo, thể hiện trong thần hồn linh động.
Tôi mua một tượng Di
Lặc bụng phệ ngồi xếp bằng cười toe toét, thật là vui nhìn ai cũng phải
cười theo . Tôi lại mua thêm ba miếng mề đay bằng đá xanh Phật Bà với
giá 60.000 thay vì 6.000 (lại bị gạt vì đá giả )Đi vào phố cổ
Hội An tôi càng ngạc nhiên hơn. Phố cổ Hội An lịch sự trong yên lặng đằm
thắm. Đường phố có lớp lang đâu vào đó (không buôn bán xô bồ) và qua
cách trình bày các sản phẩm thể hiện về nghệ thuật, nhiều nhất là các
gian hàng về hội họa, và đồ thủ công nghệ rất khéo tay.
Các nữ chủ nhân
đa số nói được tiếng Pháp. Tôi cảm thấy có cái gì đó rất gần gũi và
thương mến với mình.
Hội An có bờ biển cát trắng là Cửa Đại, sóng nhẹ
nước trong, xuất phát từ cảng du lịch đến với thắng cảnh thiên nhiên Cù
Lao Chàm 20 phút bằng tàu cao tốc, tàu thường một tiếng. Cù Lao Chàm đã
có cách đây 300 năm tuổi nằm giữa đại dương mênh mông cách phố cổ Hội An
19km về phía đông.
Từ thế kỷ mười lăm trở về trước, người Champa là chủ
nhân của Cù Lao Chàm. Thế kỷ mười sáu người Việt đã có mặt và định cư ở
đây. Dân số chừng 3.000 người, sinh sống bằng nghề biển tại hai bãi lớn
nhất: Bãi Làng và Bãi Hương. Hồn Cù Lao rất phong phú tuyệt vời, quanh
đảo cả một đại dương tĩnh lặng, chỉ nghe tiếng sóng vỗ vào bờ cát mịn
hòa nhịp với tiếng gió như cõi thiên đường hoang sơ, đã gợi lòng khách
nhiều bâng khuâng lưu luyến đến lúc ra về có chút quà: Bánh su xê, Bánh
ít lá gai do bàn tay của người trên đảo làm ra. Cù Lao Chàm đã xứng đáng
được bình chọn làm khu bảo tồn biển thứ hai tại Việt Nam, sau Hòn Mun
(Nha Trang, Khánh Hòa) .
Đến
Hội An, tình cờ tôi gặp lại họa sĩ Từ Duy trong một tòa nhà lớn với hai
tầng lầu treo đầy tranh ảnh của anh nằm ngay trung tâm thành phố .
Từ
Duy đã từng được mời sang Paris và Hồng Kông triển lãm tranh ảnh nghệ
thuật, đặc biệt tại Paris được phu nhân Tổng Thống Mitterant mua một bức
tranh để kỷ niệm với người họa sĩ tài hoa.
Từ Duy tâm sự đó là một vinh
hạnh lớn trong cuộc đời một người nghệ sĩ trong chuyến đi ở hải ngọai
vừa qua. Trong dòng máu đã có dấu ấn nghệ sĩ thì cái nhìn nghệ thuật sẽ
khác hơn người thường.
Gặp anh, tôi nhớ lại lần gặp anh ở Paris, tôi đã
mến cái vẻ “bụi” của anh liền, râu ria bồm xồm, áo quần xốc xếch với cái
túi vải một bên vai đúng là một nghệ sĩ.
Hôm nay, anh vẫn áo thô quần
nội hóa, nhưng không mất đi cá tính hài hước nghệ sĩ có duyên của anh.
Tôi ra lại Đà Nẵng, ngay buổi chiều hôm đó anh đi tìm tôi để cùng gặp
họa sĩ Vũ Dương. Vũ Dương cũng đã từng đi Paris triễn lãm tranh. Vũ
Dương có cái nhìn về nghệ thuật cao, nhưng anh đạo mạo và áo quần đâu
vào đó, nhìn anh như nhà mô phạm hơn là một nghệ sĩ.
Ba chúng tôi ngồi
dưới hàng thông bên cạnh biển Nam Ô ôn lại dĩ vãng những ngày hai anh
gặp tôi tại Paris . Nhưng hôm đó tôi quá mệt, ( vì đi nhiều) trước gió
biển mát mẻ, tiếng lá thông vi vu, tôi nói hai anh tiếp tục nói chuyện
và chờ tôi một tí. Nói xong tôi nằm lăn trên cát ngủ vùi một giấc. Tỉnh
dậy mà người vẫn còn mệt.Để tránh bị “chém” một cách vô tội vạ
trong chuyến đi Hà Nội, tôi mua trọn gói chuyến du lịch cá nhân từ Đà
Nẵng, Hà Nội đi bằng máy bay trong năm ngày, (ăn ba buổi tại khách sạn),
hai ngày ở vịnh Hạ Long và ba ngày ở Hà Nội.
Bước ra khỏi phi trường
Nội Bài là có người của hãng du lịch đón chúng tôi tại cổng và đưa thẳng
ra vịnh Hạ Long..Ra khỏi phạm vi của phi trường, đường ra vịnh
Hạ Long chỉ một con đường đi thẳng.
Hai bên là đồng quê và những ngôi
nhà nghèo của nông dân, có vài ba căn nhà cao chen kẽ được xây hai, ba
tầng, bề ngang nhỏ chừng năm thước, không thấy nhà nào rộng lớn xây cất
theo như trong Nam.
Thỉnh thoảng thấy bên lề đường tấm bản ghi “Mèo
xuất” và “Ô tô đỗ” tôi hỏi anh tài “Bắc kỳ nho nhỏ” thì được giải thích
“Mèo Xuất” là quán ăn có món thịt Mèo! “Ô tô đỗ” là có chỗ đậu xe .
Đúng
là Bắc kỳ. Kỳ cục…Con đường đến Vịnh Hạ Long chúng tôi ghé Hải
Dương mua bánh gai và bánh đậu xanh, hai món này đặc sản tại đây.
Bánh
gai thì chẳng có gì đặc biệt, họ gói cả một đống lá chuối dày đặc, bên
trong bánh mỏng tí tẹo, còn bánh đậu xanh từng miếng nhỏ trong hộp , vừa
lấy ra thì đã nát tan trước khi cho vào miệng. Suốt con đường cách 10
phút có bản để “Thịt Chó” và “Mèo xuất”. Quán thịt Chó nhiều hơn là quán
thịt Mèo .
... Một
ngày lênh đênh ngoài vịnh Hạ Long tôi không có cảm giác hứng khởi rạo
rực trong lòng, thằng em tôi cũng vậy. Hay là tôi có quá nhiều ấn tượng
về vịnh Hạ Long qua sách báo ở hải ngọai, hoặc là tôi đã đi qua một Hòn
Cù Lao Chàm thơ mộng, với biển cát mênh mông, nên khi nhìn thấy hang
động Thiên Cung ở Hạ Long bớt đi cảm xúc chăng ?Buổi tối chúng
tôi viếng đảo Tuần Châu. Nơi đây họ trang trí và để nhạc trong các hàng
cây theo nhạc điệu Trung Hoa.
Tôi hỏi anh tài xế có phải đảo này do
người Tàu thành lập ? Anh tài xế nói người đề xướng thắng cảnh đảo Tuần
Châu này thành nơi du lịch là cá nhân của một người Việt gốc miền Nam.
Giữa rừng có một ngôi nhà màu trắng, xây theo kiến trúc của Ý.
Bên trong
treo các ảnh thời chiến tranh trước năm bảy lăm, và hình ảnh các tướng
lãnh .
. Hai chị em tôi đi chưa hết một phần ở hành lang, mồ hôi
chảy rân rân trong lưng như con giun bò từ trên xuống dưới. Bước vào
ngôi nhà triển lãm, bịt bùng, hừng hực nóng như lò lửa, tôi cảm thấy
ngột ngạt đến khó thở. Hai chị em tôi vội vàng bước ra.
Quái! ban đêm
giữa hòn đảo mà trời im gió lặng thế này ? Mồ hôi ra như tắm, vừa rít
vừa mệt làm tôi buồn ngủ vô cùng. Khiếp, du ngoạn gì nóng nực khổ sở quá
vậy nè ! Mệt, làm tôi bước đi không vững...Từ Nhà Hát Lớn ngay
trung tâm phố Hà Nội, chúng tôi đi bộ đến hai bờ hồ này không xa lắm. Hồ
Hoàn Kiếm và Văn Thánh kề sát bên hồ Trúc Bạch. Giữa thành phố có “nước
xanh liễu rũ” rất thơ mộng nhìn mát lòng khách giữa cơn nóng hiu hiu
buổi trưa.
Liễu rũ trên mặt hồ năm tháng rơi. Nước xanh không thấy chỉ
thấy nước hồ sền sệt, màu xanh của nước đã ngã màu lục thẩm, liễu rơi
đầy năm tháng không vớt nên nước hồ đã đổi màu, nhìn xa xa cảnh bờ hồ
đẹp, đến gần thì cảm giác đẹp bớt đi.
Băng
qua con đường là đến phố Hàng Điếu, Hàng Đào, Hàng Gai, Hàng Trống,
Hàng Gà, Hàng Nón, Hàng Bông, Hàng Hòm v.v...
Trên các con đường, đường
nào, tiệm nấy cũng nhỏ hẹp. Phía trên để ở, phía dưới làm nơi buôn bán.
Khách nước ngoài, khách nội địa, dân của địa phương qua lại tấp nập trên
những con đường buôn bán chính. Ban đêm trên con đường này, khi cánh
cửa các gian hàng khép lại, có đủ loại quán cóc lộ thiên ngay bên lề. Có
người chỉ cần một cái bếp nhỏ liêu xiêu bên con hẻm, mùi hành tỏi bay
ra làm hấp dẫn khách đi đường. Suốt con đường Hàng Điếu (Hàng Điếu là gì
?) chỉ nhờ vào đèn đường xe rọi sáng, người ta để một cái dĩa (bánh hay
thịt gì đó) dưới đất, trên miếng thịt có cây tăm.
Bên lề đường có những
khúc xương và giấy lau miệng ngổn ngang dưới đất (hình ảnh này Sài Gòn
cũng thấy). Hai người ngồi chồm hỗm ăn một dĩa, mà ba, bốn người một dĩa
cũng có.
Tôi có cảm tưởng người dân ở đây họ không quan trọng đến bụi
bặm, ruồi muỗi, nóng nực mà chỉ chú trọng đến cái thú ăn đêm là chính.
Lúc đầu tôi tưởng là dân bia rượu nhưng họ là cũng tình nhân vì họ còn
rất trẻ. Tôi có ấn tượng đẹp về Hà Nội trong văn chương “Ba
mươi sáu phố phường”.
Hôm nay, nhìn một ba mươi sáu phố phường của Hà
Nội vắng những cơn mưa, hay hoa sữa thôi bay trong bụi mờ đã vội tan
ngay lòng như cục nước đá giữa buổi trưa hè. Tôi cố tìm một dáng Phố
Hàng Đào, Hàng Giấy, Hàng Bông thơ mộng nhưng có gì đâu?
Hỗn tạp như cái
chợ ...Chị em tôi ngủ tại khách sạn nằm gần ga xe lửa. Đang
trong giấc ngủ ngon khoảng ba, bốn giờ sáng đã nghe tiếng còi xe lửa tru
tréo đánh thức. Trong giấc ngủ nửa mê nửa tỉnh, chị em chúng tôi cứ
chập chờn cho đến sáng.
Thật không có gì bực cho bằng, khi giấc ngủ
không được “trọn gói”. Trong hợp đồng du lịch, ngày ba bữa ăn, trừ nước
uống khách phải chịu.
Điểm tâm buổi sáng dân Hà Nội cũng như Sài Gòn ăn
giống như buổi chính : Mì, phở, hủ tiếu v.v.. .
Chị em tôi không ăn mặn
buổi sáng chỉ uống cà phê, khi rời khỏi phòng điểm tâm, nhân viên tính
tiền cà phê, tôi ngạc nhiên thì họ nói cà phê là nước uống đấy ạ !Chấm
dứt những ngày ở Hà Nội, anh tài xế đưa chúng tôi trở ra phi trường Nội
Bài.
Anh để nhạc ngoại quốc, tôi yêu cầu mở nhạc Việt, anh đổi sang
nhạc Việt và mở rất nhỏ,
nhưng tiếng ca réo rắt chát chúa thật khó nghe,
tôi nhăn mặt, anh ta đổi sang nhạc khác thấy dễ chịu và hợp với phong
cảnh đồng quê hơn.
Trên
chuyến bay Vietnam Airlines từ Hà Nội vào Sài Gòn để chuyển máy bay Air
France về lại Pháp, tôi ngã người ra hết phía sau, nhắm mắt hít thở
không khí êm đềm trên không gian trong sáng.
Tôi nhớ lại những gì đã
qua. Nhớ bà chủ khách sạn và mấy cô dọn phòng làm tôi thật ngại ngùng
lúng túng khi đưa ly cà phê cho tôi bằng hai tay. Nhớ con cháu dâu khúm
núm cúi khom người khi tôi gọi nó đến ngồi ăn cơm.
Trời! Mấy người làm
kiểu gì kỳ vậy ? bộ tôi là Hoàng Hậu sao, mà có Hoàng Hậu mấy người cũng
đừng làm thế ! Thời buổi này.. . Mấy người làm tôi “quê” quá! A, tôi
nhớ lại rồi, khi tôi đi xe taxi người ta có vẻ “nể” hơn là đi xe gắn
máy.
Thấy ai có chiếc xe hơi riêng là những người xung quanh tự động hạ
thấp giá trị của mình liền.Nhớ lúc đi cho đến lúc về, buồn vui
lẫn lộn.
Buồn là không thấy ngôi nhà thương yêu ngày xưa và mảnh vườn
bây giờ thành quán cà phê trong có máy lạnh của một người nào đó lạ
hoắc.
Tôi về, muốn nhìn ngược lại thời gian nơi mình sinh ra và lớn lên,
nơi mà ngày trông cho mau tàn, đêm mong chóng lớn, nhưng nơi ấy không
còn nữa. Tôi bùi ngùi nhìn những ngôi mộ bên nội tổ và bố mẹ tôi sắp dời
đến một phần đất nào đó, mà đã ba lần đã giải tỏa rồi. Mộ phần người
chết vẫn chưa được yên.
Vui, gặp anh chị em cô bác gần xa, và một thị xã
Đà Nẵng quê hương tôi đã một chiều hướng thay đổi. Tôi không nói đến
Sài Gòn, Hà Nội vì hai nơi này với tôi vẫn còn xa lạ vì tuổi thơ tôi
chưa có ý thức cảm xúc.
Tôi ở Sài Gòn, Hà Nội như người du khách phương
xa. Những ngày ở Hà Nội chị em tôi không dám ăn một thứ gì , mâm cơm ở
khách sạn dọn lên còn nguyên, chúng tôi chỉ ăn chén cơm chan tí tương xì
dầu cho qua cơn đói, vì nghĩ đến các dĩa thịt trên bàn sợ có món thịt
.. . chó và món “mèo xuất” pha trộn thì hoảng hồn. Sài Gòn chẳng có gì
để lưu luyến tôi trở lại, thành phố sống động nhưng ồn ào. Tôi muốn trở
lại Pháp ngay sau khi đến Đà Nẵng, nhưng tháng tám có nhiều du khách đến
VN không còn chỗ, nên tôi tìm cách đi chơi, chờ đến hết ngày để về và
những ngày ở trên biển cát làm tôi có nhiều cảm giác thú vị, vui thích.
..
Chuyện Việt kiều về Việt Nam thăm gia đình, thăm bạn bè hỏi ra
ai cũng có tâm trạng na ná như nhau.
Chuyện quà cáp anh em trong gia
đình, người nói nhiều kẻ chê ít, phàn nàn, giận dỗi, ôi thôi là bực mình
! Việt kiều ngu ngơ như tôi rất sợ “Việt...gian”.
Còn .. ở
trong nước dễ dãi với Việt kiều, là để thâu ngọai tệ cho nhiều, chuyện
này ai cũng biết, đó là về mặt tâm lý chính trị kinh tế, nhưng đừng
tưởng bỡ mà không cẩn thận, nói năng cẩu thả sẽ biết hậu quả ngay .
Tôi
rất thoải mái và rất hạnh phúc khi về lại căn nhà nhỏ thân yêu của mình
bên dòng sông Seine trong vùng Ivry ngoại ô Paris.
Tôi bỗng mỉm cười
bâng quơ, mơ màng đâu đây những hình ảnh sau một chuyến du lịch vừa hồi
hộp vừa lo xa với ít nhiều kỷ niệm vừa qua.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét